Hãy tìm bằng chữ việt, pinyin hoặc hán.

Đạo Đức Kinh

Đa số các bản dịch tiếng Việt của Đạo Đức Kinh () hiện nay khá là tầm thường. Một bản dịch hay, không cần chú thích quá nhiều, hay thơ hóa quá đà, mà vẫn hiểu được; không đem cái nhìn hạn chế của cá nhân vào phân tích thái quá để mà làm mất đi tâm hồn của tác phẩm. Vì suy cho cùng tất cả kiến thức đều hạn chế, nên thấu hiểu về sự thông thái của một triết học () nào đấy sẽ giúp người dịch vượt qua cả kiến thức về từ ngữ lẫn ngôn ngữ. Bản thân từ [đạo - đường, lối, dòng] được cấu tạo từ [sước - bước một ngừng một] và [thủ - đầu], còn từ [đức - đức hạnh] có [xích - bước ngắn] và [tâm - tim] trong đó.

Tác phẩm này được cho là của [Lão tử] sáng tác, chia làm 2 phần chính: Thượng kinh và Hạ kinh. Bằng lời lẽ uyên áo, 81 chương đi qua nhiều chủ đề từ cách sống cho đến cách trị quốc. Đạo Đức Kinh có thể đã được chắp vá từ nhiều tác giả, chúng ta cũng không biết rõ Lão tử chính xác là ai nữa ; điều đó cũng không quan trọng lắm. Do có nhiều dị bản mà số chữ trong Đạo Đức kinh vẫn chưa thống nhất:

* 2 bản Bạch Thư (帛书) viết trên lụa được tìm thấy tại Mã Vương Đôi (馬王堆), bản Giáp () gồm 5342 chữ, bản Ất () gồm 5344 chữ.
* Bản Đạo Đức kinh chương cú《道德經章句》của Hà Thượng Công (河上公) có 5201 chữ.
* Bản Lão tử Đạo Đức kinh chú《老子道德經注》của Vương Bật (王弼) có 5162 chữ.
* Bản viết lên thẻ tre tìm thấy tại Quách Điếm (郭店) trên 13000 chữ, trong đó hơn 2000 chữ giống các phiên bản khác.

Có nhiều phần sâu sắc và một số phần mờ hồ nhưng không mờ nhạt.

Đạo Đức Kinh là một tác phẩm dành cho các bậc trị quốc vì có chứa khá nhiều tư duy chính trị. Nhưng, có một vấn đề cơ bản: nếu như đã hiểu vô vi thì không làm vua. Để tiến tới làm vua làm chúa, thì phải muốn, tức hữu dục, mà hữu dục thì hữu vi. Vô vi chỉ có đường lui thân mà thôi, không làm chính trị, vì chính trị về căn bản là đam mê quyền lực, là hữu dục. Cho nên, những người ham muốn làm vua thì lại không hiểu Đạo Đức Kinh, còn người hiểu thì lại không muốn làm vua. Vì thiếu một sự điều tra hiện sinh về bản chất của tư duy, của bản ngã. Người ta không thể tìm thấy trật tự từ cái rối loạn được, phải nhìn vào cái rối loạn và hiểu rõ nó trước đã. Chủ đề chính của tác phẩm là vô vi (), nhưng phải vô ngã () được thì mới vô vi được. Mà vô ngã thì phải hiểu bản ngã. Điều đó liên quan tới tất cả mọi người, không chỉ dành riêng cho vua chúa.

Đây chỉ là bản dịch, cho vui và để học tiếng Trung là chính, không có thêm nhiều phán xét hay phân tích.

C.


上經 [Thượng kinh] - 道經 [Đạo kinh]

一、 體道 [thể đạo]


Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.
Đạo mà có thể theo được, không phải là đạo hằng cửu. Tên mà có thể gọi được, không phải là tên vĩnh cửu.

Vô danh thiên địa chi thủy. Hữu danh vạn vật chi mẫu.
Không tên là khởi điểm của trời đất. Có tên là mẹ của vạn vật.

Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu. Thường hữu dục dĩ quan kỳ kiếu.
Không tư dục, mới nhận được sự huyền diệu của đạo. Đầy tư dục thì chỉ thấy cái bề ngoài của đạo.
¹。
Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền. Chúng diệu chi môn.
Cả hai cùng một nguồn thế mà tên thì khác. Đều gọi là Huyền. Huyền hoặc lại huyền diệu. Đó là cửa vào ra của mọi điều kỳ diệu.

1. - Từ huyền đầu có thể dịch là huyền hoặc, tức giả dối, khó tin. Từ huyền sau có thể dịch là huyền diệu, tức áo diệu, sâu xa.

二、 養身 [dưỡng thân]


Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ. Giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ.
Khi thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thì xấu đã có rồi. Đều biết lành là lành, thì đã chẳng còn cái lành rồi

Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy.
Cho nên có với không cùng sinh, khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng dáng, cao và thấp cùng nghiêng, giọng và tiếng cùng họa, trước và sau cùng thuận.

Thị dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.
Vậy nên thánh nhân dùng vô vi mà xử sự, dạy dỗ mà không cần lời nói.

Vạn vật tác yên nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, công thành nhi phất cư.
Để cho vạn vật nên mà không cản, tạo ra mà không chiếm đoạt, làm mà không cậy công, thành công mà không lấy địa vị.

Phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.
Vì chẳng giữ, do đó không mất gì.

三、 安民 [an dân]

使使使
Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
Không sùng người tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô điều ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
使使
Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
Vì vậy cái trị của thánh nhân, trống lòng, no dạ, yếu chí, mạnh xương. Luôn khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ có kiến thức không dám làm gì cả.

Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Làm theo vô vi, ắt không có gì là không trị được.

四、 無源 [vô nguyên]


Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh.
Đạo trống không nên dùng mãi mà có lẽ không thừa thãi.

Uyên hề tự vạn vật chi tông.
Căn nguyên vậy như tổ tông vạn vật.

Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần.
Bẻ gãy cái sắc nhọn, tháo gỡ cái rối răm, làm dịu cái sáng, hòa hợp với bụi bặm.

Trạm hề tự hoặc tồn.
Dường như tĩnh lặng mà vẫn hiện hữu.

Ngô bất tri thùy chi tử. Tượng đế chi tiên.
Ta không biết Đạo mầm giống gì từ đâu. Hình như có trước cả thượng đế.

五、 虛用 [hư dụng]


Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.
Trời đất không nhân tính, coi vạn vật như chó rơm.

Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.
Thánh nhân không nhân từ, coi bách tính như chó rơm.

Thiên địa chi gian, kỳ du thác thược hồ?
Ở giữa trời đất, nó giống như then khóa chăng?

Hư nhi bất khuất, động chi dũ xuất.
Trống rỗng mà không thiếu sót, càng ra thì càng động.

Đa ngôn số cùng, bất như thủ trung.
Nói nhiều tính hết, cũng không bằng giữ lại bên trong.

六、 成象 [thành tượng]


Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn.
Thần thung lũng bất tử, đó là cái khe suối huyền diệu.

Huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn.
Cửa hang huyền diệu này, đúng là nền tảng trời đất.
綿綿
Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần.
Miên man như tồn tại, dùng mà không bao giờ hết.

七、 韜光 [thao quang]


Thiên trường, địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh.
Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ có lâu dài, chính vì không có cho mình, vì thế nên trường sinh.

Thị dĩ thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn.
Vì vậy thánh nhân để bản thân ra sau mà vẫn ở trước, để thân ra ngoài mà vẫn tồn lại.

Phi dĩ kỳ vô tư da? Cố năng thành kỳ tư.
Phải chăng vì vô tư? Nên xong việc riêng cũng vô tư.

八、 易性 [dị tính]


Thượng thiện nhược thủy.
Bậc thượng thiện giống như nước.

Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo.
Nước có ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều thấy ghét, nên gần với đạo.

Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.
Ở thì lựa đất, tâm thì từ đáy lòng, giúp đỡ thì tận tình, nói thì bằng lời thành thực, trị thì phải thích đáng, làm thì nhờ vào năng lực, hành động thì theo thời.

Phù duy bất tranh, cố vô vưu.
Chỉ người ấy không tranh, nên không lầm lỗi.

九、 運夷 [vận di]


Trì nhi doanh chi, bất như kỳ dĩ.
Giữ cho đầy mãi, chớ bằng dừng lại.

Sủy nhi nhuệ chi, bất khả trường bảo.
Cầm nắm cái sắc bén, chớ giữ được lâu.
滿
Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ.
Vàng ngọc đầy nhà, chớ nắm giữ được.

Phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu.
Giàu sang mà kiêu căng, tự vác tai họa.
退
Công thành danh toại, thân thoái, thiên chi đạo.
Việc xong, lòng thỏa, lui thân, ấy là đạo trời.

十、 能為 [năng vi]


Tải doanh phách bão nhất, năng vô ly hồ?
Nâng đỡ linh hồn của đạo, có thể không lìa xa không?

Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi hồ?
Dồn khí đến mức mềm mại, có thể như một đứa bé không?

Dịch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ?
Quét bỏ cái nhìn đen tối, có thể không lỗi lầm không?

Ái dân trị quốc, năng vô vi hồ?
Yêu dân trị nước, có thể làm mà không làm không?

Thiên môn khai hạp, năng vô thư hồ?
Cửa trời khép mở, có thể thành mềm yếu không?

Minh bạch tứ đạt, năng vô tri hồ?
Sáng rõ thông suốt, có thể không cần biết không?

Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng chi bất tể, thị vị huyền đức.
Sinh như vạn vật, sống như không có gì, làm mà không cậy, tài giỏi mà không đòi làm chủ, đó là đức huyền.

十一、 無用 [vô dụng]


Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đương kỳ vô, hữu xa chi dụng.
Ba chục căm, hợp lại một bầu, chống giữ trống không, mới có xe để đi.

Duyên thực dĩ vi khí, đương kỳ vô, hữu khí chi dụng.
Chộn đất làm đồ dùng, chống giữ trống không, mới có đồ để dùng.

Tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kỳ vô, hữu thất chi dụng.
Đục cửa làm nhà, chống giữ trống không, mới có nhà để ở.

Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
Cho nên lấy có để làm lợi, lấy cái không để dùng.

十二、 檢欲 [kiểm dục]


Ngũ sắc lịnh nhân mục manh. Ngũ âm lịnh nhân nhĩ lung. Ngũ vị lịnh nhân khẩu sảng. Trì sính điền liệp, lịnh nhân tâm phát cuồng. Nan đắc chi hóa, lịnh nhân hành phương.
Năm màu khiến người mù mắt. Năm tiếng khiến người điếc tai. Năm vị khiến người tê lưỡi. Ruổi rong đuổi nhau săn bắn, khiến lòng người phát cuồng. Của cải khó được là nạn, khiến người bị hại.

Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục, cố khứ bỉ thủ thử.
Bởi vậy thánh nhân vì bụng không vì mắt, cho nên bỏ cái kia giữ cái này.

十三、 厭恥 [yếm sỉ]


Sủng nhục nhược kinh, quí đại hoạn nhược thân.
Vinh nhục làm lo âu, coi trọng làm hại bản thân.

Hà vị sủng nhục nhược kinh? Sủng vi hạ, đắc chi nhược kinh, thất chi nhược kinh, thị vị sủng nhục nhược kinh.
Tại sao vinh nhục đều làm lo âu? Vinh làm ra nhục, được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói vinh nhục đều làm lo âu.

Hà vị quí đại hoạn nhược thân? Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
Tại sao coi trọng làm hại bản thân? Ta sở dĩ có hoạn lớn này, chính vì ta có bản thân, còn không có bản thân, ta gì có hoạn nào?

Cố quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả ký thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả thác thiên hạ.
Cho nên ai quí thiên hạ hơn bản thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho. Ai yêu thiên hạ hơn bản thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được.

十四、 贊玄 [tán huyền]


Thị chi bất kiến, danh viết di. Thính chi bất văn, danh viết hi. Bác chi bất đắc, danh viết vi. Thử tam giả bất khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất.
Nhìn không thấy, gọi là bằng¹. Nghe không thấy, gọi là lặng. Nắm không được, gọi là ẩn. Ba điều ấy không thể suy cứu đến cùng, cho nên trộn lại làm một.

Kỳ thượng bất kiểu, kỳ hạ bất muội. Thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng, thị vị hốt hoảng. Nghinh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi bất kiến kỳ hậu.
Trên nó không sáng, dưới nó không mờ. Miên man mà không tên, rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là diện mạo của cái không, hình dáng của cái vô vật, gọi là mơ hồ. Đón thì không thấy đầu, theo thì không thấy đuôi.

Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, thị vị đạo kỷ.
Giữ cái đạo xưa, để cai trị chuyện nay. Biết cái nguyên thủy, ấy là đầu mối của đạo.

1. Bằng phẳng thì nhìn thẳng không thể nhìn được.

十五、 顯德 [hiển đức]


Cổ chi thiện vi sĩ giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vi chi dung.
Người hiền thiện là sĩ giả, ẩn giấu huyền diệu uyên bác, nơi mà kiến thức cũng không chạm tới được. Vì không thể hiểu được, nên đành miễn cưỡng mô tả.

Dự hề nhược đông thiệp xuyên. Do hề nhược úy tứ lân. Nghiễm hề kỳ nhược khách. Hoán hề nhược băng chi tương thích. Đôn hề kỳ nhược phác. Khoáng hề kỳ nhược cốc. Hỗn hề kỳ nhược trọc.
Do dự như qua sông mùa đông. Ngờ như tứ phía nguy. Nghiêm trang như khách. Li tan như băng. Chất phác như gỗ thô. Rộng lớn như thung lũng. Hỗn mang như nước đục.

Thục năng trọc dĩ chỉ, tĩnh nhi từ thanh? Thục dĩ an dĩ cửu, động nhi từ sinh?
Ai có thể ngừng đục, lặng lẽ từ từ trong? Ai có thể yên đợi, động đậy dần dần nẩy nở?

Bảo thử đạo giả, bất dục doanh. Phù duy bất doanh, cố năng tế bất tân thành.
Kẻ giữ đạo ấy, không ham muốn tích lũy. Vì y không tích lũy, nên che đậy cái mới được.

十六、 歸根 [qui căn]


Trí hư cực, thủ tĩnh đốc.
Trí trống rỗng tột cùng, hết sức yên tĩnh.

Vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các phục qui kỳ căn.
Vạn vật cùng nên, ta theo xem lập lại. Vạn vật gieo rắc, đều cùng trở về cội.

Qui căn viết tĩnh, tĩnh viết phục mạng. Phục mạng viết thường.
Trở về nguồn căn gọi là tĩnh, tĩnh là phục mệnh. Phục mệnh là thường đạo.

Tri thường viết minh. Bất tri thường, vọng tác hung.
Hiểu được cái bất biến gọi là sáng suốt. Không hiểu cái bất biến, sai lầm gây hung hoạ.

Tri thường dung, dung nãi công, công nãi vương, vương nãi thiên, thiên nãi Đạo, đạo nãi cửu, một thân bất đãi.
Hiểu thường đạo thì khoan dung, bao dung nên là công bằng, công bằng nên là thịnh vượng, thịnh vượng nên là thiên tính, thiên tính nên là chân lý, chân lý nên là vĩnh cửu, không có bản thân thì chẳng nguy.

十七、 淳風 [thuần phong]


Thái thượng, hạ tri hữu chi.
Thái thượng, dưới đều biết chỉ có thôi.

Kì thứ, thân nhi dự chi. Kì thứ, uý chi. Kì thứ, vũ chi. Tín bất túc, yên hữu bất tín yên.
Dưới một bậc, họ yêu quí và khen ngợi. Thấp hơn, họ sợ. Kém hơn, họ khinh. Còn không đủ thành tín, thì dân không tin.

Du hề, kì quí ngôn. Công thành sự toại, bách tính giai vị ngã tự nhiên.
Nhàn rỗi vậy, có lẽ quí lời nói. Công thành sự toại, mà dân đều tưởng rằng do công mình.

十八、 俗薄 [tục bạc]


Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa. Trí huệ xuất, hữu đại ngụy.
Đại đạo mất, mới có nhân nghĩa. Tài trí sinh ra, mới có đạo đức giả.

Lục thân bất hoà, hữu hiếu từ.
Gia đình bất hòa, mới có kẻ hiếu người từ.

Quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.
Quốc gia rối loạn, mới có trung thần.

十九、 還淳 [hoàn thuần]


Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội.
Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm.

Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ.
Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ.

Tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu.
Dứt tài bỏ lợi, không có trộm cướp.

Thử tam giả dĩ vi văn, bất túc.
Ba điều ấy chỉ văn hoa bề ngoài, không đầy đủ.

Cố lệnh hữu sở thuộc. Kiến tố bão phác. Thiểu tư quả dục.
Cho nên lệnh phụ thuộc vào. Giữ lấy mộc mạc bốc phác. Ít việc riêng thì ít ham muốn.

二十、 異俗 [dị tục]


Tuyệt học vô ưu, duy chi dữ a, tương khứ kỉ hà? Thiện chi dữ ác, tương khứ nhược hà?
Dứt học hết lo, dạ với ơi, cách nhau bao xa? Lành với dữ, khác nhau là mấy?

Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kỳ vị ương tai.
Chỗ mà người sợ, không thể không sợ. Hoang vu vậy vô tận lắm.

Chúng nhân hi hi, như hưởng thái lao, như đăng xuân đài.
Người đời hớn hở, như hưởng vinh quang, như mùa xuân lên đài.

Ngã độc bạc hề kỳ vị triệu. Như anh nhi chi vị hài. Luy luy hề nhược vô sở qui.
Ta bình thản với những gì sắp xảy ra. Như trẻ thơ chưa biết mỉm cười. Lững thững như không có nơi về.

Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di. Ngã ngu nhân chi tâm dã tai. Độn độn hề, chúng nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn. Chúng nhân sát sát, ngã độc muộn muộn. Đạm hề kỳ nhược hải, liêu hề nhược vô chỉ. Chúng nhân giai hữu, dĩ nhi ngã ngoan thả bỉ.
Chúng nhân có thừa, thế mà một mình ta thiếu thốn. Lòng ta ngu dốt thay, mù mịt tay. Mờ mịt vậy, người đời sáng tỏ, chỉ riêng ta mịt mù. Người đời rộn rã, chỉ riêng ta buồn bã. Vắng lặng như biển khơi, vi vu như gió thổi mạnh. Mọi người đều có lý do riêng, chỉ riêng ta dốt nát và hèn mọn.

Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu.
Riêng ta sống khác người, mà quí trọng mẹ muôn loài.

二十一、 虛心 [hư tâm]


Khổng đức chi dung, duy đạo thị tùng.
Dung mạo của đức lớn, chỉ tùy theo đạo.

Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật. Ảo hề minh hề, kỳ trung hữu tinh. Kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín.
Đạo là muôn vật, vì mơ hồ và mập mờ. Không đích xác vậy, mới ẩn chứa những điều xâu xa. Không rõ ràng vậy, mới có điều gì đó tồn tại. Âm u yểu điệu vậy, mới có tinh hoa. Tinh túy chân thực vậy, trong đó có đức tín.

Tự cổ cập kim, kỳ danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ.
Từ xưa đến nay, danh tiếng không phai mờ, soi sáng cho vạn vật.

Ngô hà dĩ trị chúng phủ chi trạng tai? dĩ thử.
Ta làm sao biết được trạng thái vạn vật sở khai đấy? Do cái ấy.

二十二、 益謙 [ích khiêm]


Khúc tắc toàn, uổng tắc trực, hóa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc.
Cong thì sẽ toàn vẹn, queo thì sẽ thẳng, lõm thì sẽ đầy, rách nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được, nhiều thì sẽ mê.

Thị dĩ thánh nhân bão nhất, vi thiên hạ thức. Bất tự hiện, cố minh. Bất tự thị, cố chương. Bất tự phạt cố hữu công. Bất tự căng, cố trưởng.
Cho nên thánh nhân ôm giữ đạo, để làm mẫu cho thiên hạ. Không tự cho là biết, nên sáng suốt. Không tự cho là đúng, nên rõ ràng. Không tự khoe công, nên có công. Không tự kiêu, nên tài giỏi.

Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.
Vì không tranh giành, cho nên thiên hạ không ai có thể tranh giành được.

Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả, khởi hư ngôn tai. Thành toàn nhi qui chi.
Từ thuở xa xưa người ta nói uốn cong mà vẫn trọn vẹn, há chăng phải là lời nói suông. Thật sự toàn vẹn thì đâu sẽ trở về với đó.

二十三、 虛無 [hư vô]


Hi ngôn tự nhiên.
Lời nói ít, tự nhiên.

Cố phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả, thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ.
Vì gió lốc không thổi suốt sáng, mưa rào không thông suốt ngày. Ai tạo ra điều ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể trường tồn, huống chi con người?

Cố tòng sự ư đạo giả, đồng ư đạo. Đức giả, đồng ư đức. Thất giả, đồng ư thất. Đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi. Đồng ư đức giả, đức diệc lạc đắc chi. Đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi.
Cho nên người theo đạo thì đồng với đạo. Theo đức, thì đồng với đức. Theo mất, thì đồng với mất. Đồng với đạo, đạo cũng vui tiếp nhận. Đồng với đức, đức cũng vui tiếp nhận. Đồng với mất, mất cũng vui tiếp đó.

Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.
Lòng tin không đủ ở đâu. Ở đó, có điều không đáng tin.

二十四、 苦恩 [khổ ân]


Xí giả bất lập, khóa giả bất hành. Tự hiện giả bất minh. Tự thị giả bất chương. Tự phạt giả vô công. Tự căng giả bất trường.
Người kiễng chân không đứng vững. Người bước sải dài không di động. Người tự cho là biết không sáng suốt. Người tự coi là đúng không rõ ràng. Người tự kể công không có công. Người tự kiêu không có tài.

Kỳ ư đạo dã, viết dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi. Cố hữu đạo giả bất xử.
Đứng về phương diện đạo, thì đó là những đồ thừa việc thải. Vạn vật đều ghét bỏ, cho nên người có đạo không thiết.

二十五、 象元 [tượng nguyên]


Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập bất cải. Châu thành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu.
Có vật hỗn thành, sinh trước trời đất. Yên lặng trống không, đứng một mình, không thay đổi, vận hành không ngừng nghỉ. Có thể làm mẹ của trời đất.

Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết đạo, cưỡng vi chi danh viết Đại. Đại viết thệ. Thệ viết viễn. Viễn viết phản.
Ta không biết tên nó, gọi nó là đạo. Gượng ép gọi nó là dòng lớn. Dòng lớn chảy qua, chảy đi xa, rồi trở lại.

Cố đạo đại, thiên đại, địa đại, vương diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi vương cư kỳ nhất yên. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên.
Cho nên đạo lớn, thì trời lớn, đất lớn, vua cũng lớn. Vùng trời đất có bốn cái lớn, mà vua giữ một trong số đó. Người theo phép đất, đất theo phép trời, trời theo phép đạo, đạo theo phép tự nhiên.

二十六、 重德 [trọng đức]


Trọng vi khinh căn. Tĩnh vi táo quân.
Nặng là gốc của nhẹ. Tĩnh là chủ của động.

Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất ly chuy trọng. Tuy hữu vinh quan, yến xử siêu nhiên.
Cho nên thánh nhân suốt ngày rong ruổi mà không bỏ mất hành lý. Dù có vinh hoa phú quí, vẫn giữ tâm hồn thanh cao, thoát tục.

Nại hà vạn thặng chi chủ, nhi dĩ thân khinh thiên hạ? Khinh tắc thất căn, táo tắc thất quân.
Làm sao một kẻ nắm giữ quyền lực tối cao lại có thể coi nhẹ thiên hạ? Nhẹ ắt mất gốc, vội vàng ắt mất chủ.

二十七、 巧用 [xảo dụng]


Thiện hành vô triệt tích. Thiện ngôn vô hà trích. Thiện số bất dụng trù sách. Thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai. Thiện kết vô thằng ước nhi bất khả giải.
Đi khéo không để lại dấu vết. Nói khéo không để lại lỗi lầm. Đếm khéo không cần dùng đến thước đếm. Cửa đóng không cần then mà vẫn không thể mở. Nút thắt không dây mà không thể tháo.

Thị dĩ thánh nhân, thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân. Thường thiện cứu vật, cố vô khí vật. Thị vi tập minh.
Vì vậy thánh nhân thường khéo cứu người, nên không có ai bị bỏ. Thường khéo cứu vật, nên không vật nào bị bỏ. Được gọi là kế thừa ánh sáng.

Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư. Bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư. Bất quí kỳ sư, bất ái kỳ tư, tuy trí đại mê, thị vị yếu diệu.
Cho nên người khéo là thầy của kẻ dở. Kẻ dở là cơ hội để người khéo giúp đỡ. Không trân trọng thầy, không quí mến kinh nghiệm, dù có trí thì vẫn ngu muội, khéo léo là ở chỗ đó.

二十八、 反朴 [phản phác]

谿谿
Tri kỳ hùng, thủ kỳ thư, vi thiên hạ khê. Vi thiên hạ khê, thường đức bất ly, phục qui ư anh nhi.
Biết mạnh, giữ nhu, làm khe suối cho thiên hạ. Làm khe suối cho thiên hạ, thường đức không lìa, trở về thuần khiết.

Tri kỳ bạch, thủ kỳ hắc, vi thiên hạ thức. Vi thiên hạ thức, thường đức bất thắc, phục qui ư vô cực.
Biết sáng, giữ tối, làm phép tắc cho thiên hạ. Làm phép tắc cho thiên hạ, thường đức không sai, trở về vô cực.

Tri kỳ vinh, thủ kỳ nhục, vi thiên hạ cốc. Vi thiên hạ cốc, thường đức nãi túc. Phục qui ư phác.
Biết vinh, giữ nhục, làm thung lũng cho thiên hạ. Làm thung lũng cho thiên hạ, thường đức đầy đủ, trở về mộc mạc.

Phác tán tắc vi khí, thánh nhân dụng chi, tắc vi quan trưởng, cố đại chế bất cát.
Mộc mạc thì thành độ lượng, thánh nhân dùng nó thì làm quan giỏi, cho nên đại phép tắc không phân chia.

二十九、 無為 [vô vi]


Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kỳ bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã. Vi giả bại chi, chấp giả thất chi.
Kẻ muốn lấy thiên hạ mà làm chủ, ta thấy không thể được. Thần khí của thiên hạ, không thể nắm giữ, làm thì bại, giữ thì mất.

Cố vật hoặc hành hoặc tùy, hoặc hư hoặc xuy, hoặc cường hoặc luy, hoặc tỏa hoặc huy.
Cho nên vật hoặc đi hoặc theo, hoặc hít hoặc thở, hoặc mạnh hoặc yếu, hoặc nâng hoặc hủy.

Thị dĩ thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái.
Vì vậy thánh nhân từ bỏ cái quá đáng, cái quá đỗi¹, cái thái quá.

1. Quá đỗi nghĩa là quá chừng.

三十、 儉武 [kiệm vũ]


Dĩ đạo tác nhân chủ giả, bất dĩ binh cưỡng thiên hạ. Kỳ sự hiếu hoàn. Sư chi sở xử, kinh cức sinh yên. Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên.
Dùng đạo để phụ tá cho vua chúa, không dùng binh cưỡng bách thiên hạ. Mọi chuyện sẽ suôn sẻ. Nơi nào lính đóng, gai góc mọc lên. Sau khi đại quân qua, ắt có năm hạn.

Cố thiện giả quả nhi dĩ, bất cảm dĩ thủ cường. Quả nhi vật căng, quả nhi vật phạt, quả nhi vật kiêu. Quả nhi bất đắc dĩ, quả nhi vật cường.
Cho nên không có gì hơn làm điều thiện để có thành quả, mà không cần dùng sức. Làm mà chớ kiêu căng, chớ khoe khoang, chớ cao ngạo. Bất đắc dĩ, làm mà đừng cưỡng cầu.

Vật tráng tắc lão, thị vị phi đạo, phi đạo tảo dĩ.
Vật mạnh ắt già, như vậy là trái đạo, trái đạo sẽ mất sớm.

三十一、 偃武 [yển vũ]


Phù giai binh giả, bất tường chi khí, vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử.
Binh đao tốt nhất, là vật hung dữ, ai cũng ghét bỏ, cho nên người có đạo chẳng dùng.

Quân tử cư đắc quí tả, dụng binh tắc quí hữu. Binh giả bất tường chi khí, phi quân tử chi khí, bất đắc dĩ nhi dụng chi, điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mĩ, nhi mĩ chi giả, thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả, tắc bất khả dĩ đắc chí ư thiên hạ hĩ.
Người quân tử ở nhà thì trọng bên trái, dùng binh thì trọng bên phải. Vũ khí là vật không may mắn, không phải là vật của người quân tử, bất đắc dĩ mới dùng, giữ thái độ bình thản là trên hết. Thắng mà không đẹp, mà lại đẹp đẽ hóa nó, đó là thích giết người. Kẻ thích giết người, thì không thể thành công trên đời.

Cát sự thượng tả. Hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân cư tả, thượng tướng quân cư hữu, ngôn dĩ tang lễ xử chi. Sát nhân chi chúng, dĩ ai bi khảo chi, chiến thắng dĩ tang lễ xử chi.
Lành ở bên trái, dữ ở bên phải. Phó tướng ở bên trái, thượng tướng ở bên phải, đó là nghi tiết dùng trong tang lễ. Khi giết nhiều người, phải khóc lóc xót thương, chiến thắng cũng phải đứng làm chủ tang.

三十二、 聖德 [thánh đức]

,
Đạo thường vô danh. Phác tuy tiểu, thiên hạ bất cảm thần. Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự tân. Thiên địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ, dân mạc chi lệnh, nhi tự quân.
Thường đạo không tên. Tuy giản dị, nhưng cả thiên hạ không ai dám coi thường. Vua chúa nếu có thể giữ được nó, vạn vật sẽ tự nhiên quy phục. Trời đất hòa hợp, mưa móc giáng xuống, dân không phải sai khiến, mà tự công bằng.

Thủy chế hữu danh, danh diệc ký hữu, phù diệc tương tri chỉ, tri chỉ khả dĩ bất đãi. Thí đạo chi tại thiên hạ, do xuyên cốc chi ư giang hải.
Phép chế thì đều có tên, khi đã có danh phận, thì nên biết điểm dừng, biết dừng lại thì sẽ không nguy. Ví đạo với thiên hạ, như khe suối quy về sông biển.

三十三、 辨德 [biện đức]


Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường. Tri túc giả phú, cường hành giả hữu chí.
Biết người là khôn, biết mình là sáng. Thắng người là có sức mạnh, thắng mình là kiên cường. Biết đủ là giàu. Kiên cường là có chí.

Bất thất kỳ sở giả cửu. Tử nhi bất vong giả thọ.
Không đánh mất cái gốc của mình thì sẽ trường tồn. Chết mà không mất đạo, thế là thọ.

三十四、 任成 [nhiệm thành]


Đại đạo phiếm hề, kỳ khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ, công thành bất danh hữu, y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ. Thường vô dục khả danh ư tiểu, vạn vật qui yên nhi bất vi chủ, khả danh vi đại.
Đại đạo cuồn cuộn, có thể xoay chuyển trái phải. Vạn vật nhờ nó sinh mà không can thiệp, nên việc mà không nhận công, nuôi dưỡng muôn loài mà không làm chủ. Thường đạo vô dục, có thể coi là nhỏ bé. Muôn vật theo về mà không làm chủ, có thể gọi là lớn.

Thị dĩ thánh nhân chung bất vi đại, cố năng thành kỳ đại.
Cái gì rốt cuộc không cho mình là lớn, vì vậy có thể thành việc lớn.

三十五、 仁德 [nhân đức]


Chấp đại tượng, thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại, an bình thái.
Nắm giữ bản chất căn bản, thiên hạ hướng về. Quy về mà không hại, là thái bình.

Nhạc dữ nhị, quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hồ kỳ vô vị. Thị chi bất túc kiến, thính chi bất túc văn, dụng chi bất khả ký.
Nhạc cùng thức ăn ngon, làm khách qua đường dừng bước. Đạo mà nói ra, nhạt nhẽo hay vô vị, nhìn không thấy, nghe không rõ, dùng mãi không hết.

三十六、 微明 [vi minh]


Tương dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi. Tương dục phế chi, tất cố cử chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị vị vi minh, nhu nhược thắng cương cường.
Muốn thu lại, ắt phải mở ra. Muốn làm suy bại, ắt phải làm mạnh lên. Muốn phế bỏ, ắt đề cử lên. Muốn cướp lấy gì, ắt hãy cho đi. Đó gọi là vi minh. Nhu nhược thắng cương cường.

Ngư bất khả thoát ư uyên, quốc chi lợi khí bất khả dĩ thị nhân.
Cá không thể rời khỏi nước sâu, đồ quốc bảo chẳng nên phô trương.

三十七、 為政 [vi chính]


Đạo thường vô vi nhi vô bất vi.
Thường đạo không làm gì nhưng không gì không làm được.

Hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự hóa.
Nếu bậc vương hầu biết giữ gìn đạo, thì muôn loài sẽ tự chuyển hóa.
。(
Hóa nhi dục tác, ngô tương trấn chi dĩ vô danh chi phác. (Vô danh chi phác) Phù diệc tương vô dục. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương tự định.
Khi chuyển hóa mà còn muốn thêm, ta sẽ dùng sự mộc mạc vô danh để trấn áp nó. Vậy thì người ta cũng sẽ không còn ham muốn. Không có ham muốn thì thanh tĩnh, thiên hạ sẽ tự được an định.

下經 [Hạ kinh] - 德經 [Đức kinh]

三十八、 論德 [luận đức]


Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức. Hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức.
Bậc đức cao không tỏ vẻ có đức, nên mới có đức. Kẻ đức thấp cầu đức, vì thế nên không có đức.

Thượng đức vô vi nhi vô dĩ vi. Hạ đức vô vi nhi hữu dĩ vi.
Bậc đức cao không làm nhưng không có ý làm. Kẻ đức thấp không làm nhưng vẫn có ý.

Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi. Thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tí nhi nhưng chi. Cố thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ, phù lễ giả trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. Tiền thức giả, đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy.
Bậc thượng nhân làm nhưng không có ý làm. Bậc thượng nghĩa làm nhưng có ý làm. Bậc thượng lễ làm nhưng chẳng ai tiếp nhận, thì liền vén tay ép buộc. Cho nên mất đạo rồi mới có đức, mất đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới có nghĩa, mất nghĩa rồi mới có lễ, lễ đó là cái xấu xa¹ của trung tín, và là đầu mối của sự rối loạn. Tính toán trước, là văn sức² của đạo, là khởi đầu cho muôn vàn ngu si.

Thị dĩ đại trượng phu xử kỳ hậu, bất cư kỳ bạc, xử kỳ thực, bất cư kỳ hoa. Cố khứ bỉ thủ thử.
Bởi vậy bậc đại trượng phu ở chỗ tốt lành, tránh chỗ xấu xa, ở chỗ thật thà³, tránh chỗ hoa hoét, cho nên bỏ cái kia giữ cái này.

1. Hoặc mong manh.
2. Tức bề ngoài lòe loẹt.
3. Hoặc mộc mạc.

三十九、 法本 [pháp bản]


Tích chi đắc nhất giả, thiên đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh, thần đắc nhất dĩ linh, cốc đắc nhất dĩ doanh, vạn vật đắc nhất dĩ sinh, hầu vương đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh. Kỳ trí chi nhất dã.
Những thứ xưa được đạo, trời được đạo nên trong, đất được đạo nên yên, thần được đạo nên thiêng liêng, lũng được đạo nên tràn đầy, vạn vật được đạo nên nẩy nở, vua chúa được đạo nên thiên hạ trung thành. Đều do đạt đạo mà nên.

Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt, địa vô dĩ ninh tương khủng phế, thần vô dĩ linh tương khủng hiệt, cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt, hầu vương vô dĩ quí cao tương khủng quyết.
Trời không thể trong sợ rằng sẽ nứt vỡ, đất không yên thì hư nát, thần không thiêng liêng thì sẽ tan mất, lũng không tràn đầy thì sẽ cạn, vạn vật không nẩy nở thì tuyệt diệt, vua chúa không cao quí thì sẽ mất ngôi.

Cố quí dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ hầu vương tự vị cô, quả, bất cốc. Thử kỳ dĩ tiện vi bản da? Phi hồ?
Cho nên sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền. Vì thế bậc vương hầu tự khiêm tốn xưng là cô¹, quả², bất cốc³. Thế không phải là lấy hèn làm gốc chăng? Có đúng không?

Cố chí số dự vô dự. Bất dục lục lục như ngọc, lạc lạc như thạch.
Cho đến cùng, tiếng qua tiếng lại không quan trọng. Không nên rực rỡ như ngọc, mà sần sùi như đá.

1. Cô quả.
2. Quả nhân.
3. Bất tài.

四十、 去用 [khử dụng]


Phản giả đạo chi động. Nhược giả đạo chi dụng.
Trở lại là cái động của đạo. Yếu mềm là cái dụng của đạo.

Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô.
Vạn vật trên trời dưới đất từ cái có mà sinh ra. Có sinh ra từ không.

四十一、 同異 [đồng dị]


Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi. Trung sĩ văn đạo, nhược tồn, nhược vong. Hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo.
Thượng sĩ nghe đạo, siêng năng thực hành. Trung sĩ nghe đạo, có mà như không. Hạ sĩ nghe đạo, cười khanh khách. Không cười thì không đáng làm đạo.
退
Cố kiến ngôn hữu chi: minh đạo nhược muội, tiến đạo nhược thối, di đạo nhược lỗi, thượng đức nhược cốc, đại bạch nhược nhục, quảng đức nhược bất túc, kiến đức nhược thâu, chất đức nhược du.
Nên người xưa nói rằng: đạo sáng dường như tối tăm, đạo tiến dường như lùi lại, đạo bằng phẳng dường như tì vết, đức cao dường như khe suối, to lớn dường như khuất nhục, đức rộng dường như không đủ, đức thẳng dường như bạc bẽo, đức thật dường như biến đổi.

Đại phương vô ngung, đại khí vãn thành, đại âm hi thanh, đại tượng vô hình, đạo ẩn vô danh. Phù duy đạo, thiện thải thả thành.
Vuông lớn không góc, tài lớn chậm thành, tiếng lớn ít lời, vật lớn không hình, đạo ẩn không tên. Chỉ có đạo, cho vay hào phóng mà lại thành.

四十二、 道化 [đạo hóa]


Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa.
Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật ôm dương cõng âm, khí xung khắc nhau mà hài hòa.

Nhân chi sở ố, duy cô, quả, bất cốc, nhi vương công dĩ vi xưng. Cố vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn.
Chỗ ghét ở người, cô đơn¹, lẻ loi², bất tài³, nhưng mà vua chúa lại dùng chúng để tự xưng. Như vậy sự đời bớt là thêm, thêm là bớt.

Nhân chi sở giáo, ngã diệc giáo chi. Cường lương giả bất đắc kỳ tử. Ngô tương dĩ vi giáo phụ.
Điều người xưa dạy, nay ta cũng dạy, kẻ hung bạo không được chết tự nhiên, ta sẽ lấy làm bài học.

1. Cô.
2. Quả.
3. Bất cốc.

四十三、 遍用 [biến dụng]


Thiên hạ chi chí nhu, trì sính thiên hạ chi trí kiên, vô hữu nhập vô gián. Ngô thị dĩ tri vô vi chi hữu ích.
Cái mềm nhất trong thiên hạ, xuyên qua được cái cứng nhất, cái không có lọt qua được cái không hở. Ta lấy việc biết vô vi là có ích.

Bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi.
Dạy mà không lời, ích của vô vi, thiên hạ hiếm ai thấu hiểu.

四十四、 知止 [tri chỉ]


Danh dữ thân thục thân? thân dữ hóa thục đa? Đắc dữ vong thục bệnh?
Danh với thân cái nào gần gũi? Thân với của cải cái nào hơn? Được với mất cái nào hại?

Thị cố thậm ái tắc thậm phí, đa tàng tất hậu vong. Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu.
Cho nên yêu nhiều ắt tổn nhiều, chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ không nhục, biết dừng không nguy, có thể trường cửu.

四十五、 洪德 [hồng đức]


Đại thành nhược khuyết, kỳ dụng bất tệ. Đại doanh nhược xung, kỳ dụng bất cùng. Đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột.
Cái trọn vẹn dường như thiếu sót, công dụng không có khuyết điểm. Cái vô cùng đầy đặn dường như trống rỗng, công dụng không thể cạn kiệt. Cái thẳng nhất dường như cong, cái khéo léo nhất dường như vụng về, hùng biện giỏi nhất dương như ấp ứng.

Tĩnh thắng táo, hàn thắng nhiệt, thanh tĩnh vi thiên hạ chính.
Tĩnh thắng động, lạnh thắng nóng, thanh tĩnh làm thiên hạ ngay thẳng.

四十六、 儉欲 [kiệm dục]


Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn. Thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao.
Thiên hạ có đạo, thì ngựa để chạy lùi về bón phân. Thiên hạ không đạo, ngựa chiến sinh ra ngoài đồng.

Họa mạc đại ư bất tri túc. Cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ.
Không họa nào lớn hơn không biết đủ. Không tội nào lớn hơn tham lam. Cho nên biết đủ là đủ, sẽ luôn luôn đủ.

四十七、 鋻遠 [giám viễn]


Bất xuất hộ, tri thiên hạ. Bất khuy dũ, kiến thiên đạo. Kỳ xuất di viễn, kỳ tri di thiểu.
Không ra khỏi nhà, mà biết thiên hạ. Không ngó qua cửa sổ, mà thấy đạo trời. Đi càng xa, biết càng ít.

Thị dĩ thánh nhân bất hành nhi tri, bất kiến nhi danh, bất vi nhi thành.
Vì vậy thánh nhân chẳng đi mà biết, chẳng thấy mà hay, chẳng làm mà nên.

四十八、 忘知 [vong tri]


Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi.
Theo học mỗi ngày một thêm, theo đạo mỗi ngày một bớt. Bớt rồi lại bớt nữa, cho đến vô vi.

Vô vi nhi vô bất vi. Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự. Cập kỳ hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ.
Không làm mà không gì không nên. Lấy thiên hạ luôn luôn trong vô sự. Lấy bằng hữu sự, không đủ để được thiên hạ.

四十九、 任德 [nhiệm đức]


Thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi, đắc thiện hĩ. Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi, đắc tín hĩ.
Thánh nhân không có định kiến, lấy lòng dạ của bách tính làm lòng dạ mình. Ta tốt với người tốt, với người không tốt ta cũng tốt, đắc thiện thay. Ta tin người đáng tin, với người không đáng tin ta cũng tin, đắc tín thay.

Thánh nhân tại thiên hạ, hấp hấp yên. Vi thiên hạ, hồn kỳ tâm. Bách tính giai chú kỳ nhĩ mục, thánh nhân giai hài chi.
Thánh nhân nơi thiên hạ, rụt rè vậy. Vì thiên hạ, tính tình hồn nhiên. Dân chúng đều để tai mắt vào y, thánh nhân đều coi chúng như con trẻ.

五十、 貴生 [quí sinh]


Xuất sinh nhập tử.
Sống chết trên lằn dao.

Sinh chi đồ thập hữu tam, tử chi đồ thập hữu tam, nhân chi sinh, động chi tử địa diệc thập hữu tam. Phù hà cố? Dĩ kỳ sinh sinh chi hậu.
Có mười ba lối sống, mười ba lối chết, cuộc sống của người thường dẫn đến chỗ chết, mà cũng là mười ba. Tại sao vậy? Vì sinh sôi nảy nở nhiều.

Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lục hành bất ngộ hủy hổ, nhập quân bất bị giáp binh. Hủy vô sở đầu kỳ giác, hổ vô sở thố kỳ trảo, binh vô sở dung kỳ nhận. Phù hà cố ? Dĩ kỳ vô tử địa.
Nghe rằng người dưỡng sinh tốt, đi đường bộ không gặp thú dữ, nhập quân không bị chiến tranh. Tê giác không có chỗ nào để húc sừng, hổ không có chỗ nào để vồ móng vuốt, binh khí không có chỗ nào để đâm chém. Tại sao vậy? Vì không tiến tới chỗ chết.

五十一、 養德 [dưỡng đức]


Đạo sinh chi, đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc bất tôn đạo nhi quí đức.
Đạo sinh, đức dưỡng, vật cấu thành hình, tình hình nên thành. Cho nên muôn vật đều tôn đạo quí đức.

Đạo chi tôn, đức chi quí, phù mạc chi mệnh nhi thường tự nhiên.
Đạo được kính trọng, đức được quí trọng, Tự nhiên vận hành chẳng ai ban hành.

Cố đạo sinh chi, đức súc chi, trưởng chi dục chi, thành chi thục chi, dưỡng chi phú chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng nhi bất tể, thị vị huyền đức.
Cho nên đạo sinh, đức dưỡng, luôn luôn nuôi nấng, nên thành chín quả, săn sóc che chở. Sinh ra mà không sở hữu, làm mà không cậy, tài giỏi mà không đòi làm chủ, vậy gọi là đức huyền.

五十二、 歸元 [qui nguyên]


Thượng hạ hữu thủy, dĩ vi thiên hạ mẫu. Ký đắc kỳ mẫu, dĩ tri kỳ tử. Ký tri kỳ tử phục thủ kỳ mẫu, một thân bất đãi.
Thiên hạ có khởi điểm, ấy là mẹ thiên hạ. Đã nắm được mẹ, thì biết được con. Đã hiểu được vạn vật, thì lại quay lại nắm khởi điểm. Suốt đời không nguy.

Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, chung thân bất cần. Khai kỳ đoài, tế kỳ sự, chung thân bất cứu.
Ngăn hết lối, đóng hết cửa, suốt đời không lo toan. Mở các lối, giúp sự cố, suốt đời không cứu được.

Kiến tiểu viết minh, thủ nhu viết cường. Dụng kỳ quang, phục qui kỳ minh, vô di thân ương, thị vi tập thường.
Thấy được cái nhỏ bé gọi là sáng, giữ được cái mềm gọi là mạnh. Dùng cái sáng của con, mà phục hồi ánh sáng của mẹ, không để lại tai họa. Đấy là học tập cái vĩnh cửu.

五十三、 益證 [ích chứng]

使
Sử ngã giới nhiên hữu tri, hành ư đại đạo, duy thi thị úy. đại đạo thậm di nhi dân hiếu kính.
Nếu ta ngay thẳng mà hiểu được, đi theo con đường lớn, sợ duy nhất đi ngoẹo. Con đường lớn bằng phẳng, nhưng dân chúng lại thích đi lối tắt.

Triều thậm trừ, điền thậm vu, thương thậm hư. Phục văn thái, đới lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hóa hữu dư, thị vị đạo khoa. Phi đạo dã tai.
Triều đình quá chia rẽ, ruộng quá hoang vu, kho quá trống trơn. Ăn mặc sang trọng, đeo kiếm sắc, ăn uống chán chê, tài sản thừa thãi, đó gọi là kẻ trộm kiêu căng tự đại. Ngược đạo vậy thay.

五十四、 修觀 [tu quan]


Thiện kiến giả bất bạt, thiện bão giả bất thoát, tử tôn dĩ tế tự bất chuyết.
Người xây khéo không thể lật đổ, người khéo ôm không để tuột mất, con cháu đời sau tiếp nối thờ cúng không ngừng.

Tu chi ư thân, kỳ đức nãi chân. Tu chi ư gia, kỳ đức nãi dư. Tu chi ư hương, kỳ đức nãi trường. Tu chi ư quốc, kỳ đức nãi phong. Tu chi ư thiên hạ, kỳ đức nãi phổ.
Tựa đạo tu thân, thì là đức thực. Tựa đạo tu gia, thì là đức thừa. Tựa đạo mà tu sửa làng quê, thì là đức thường. Tựa đạo tu sửa đất nước, thì là đức thịnh. Tựa đạo tu sửa thiên hạ, thì là đức lớn.

Cố dĩ thân quan thân, dĩ gia quan gia, dĩ hương quan hương, dĩ quốc quan quốc, dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ tri thiên hạ chi nhiên tai? Dĩ thử.
Cho nên lấy thân mà xét thân, lấy gia mà xét gia, lấy làng mà xét làng, lấy nước mà xét nước, lấy thiên hạ mà xét thiên hạ. Ta làm sao biết thiên hạ như thế nào? Tựa đạo.

五十五、 玄符 [huyền phù]


Hàm đức chi hậu, tỷ ư xích tử. Độc trùng bất thích, mãnh thú bất cứ, cược điểu bất bác.
Ôm giữ đức dày, giống như đứa trẻ trần truồng. Rắn độc không cắn, thú dữ không vồ, chim ưng không quắp.
使
Cốt nhược cân nhu nhi ốc cố, vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi toàn tác, tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá. Hòa chi chí dã. Tri hòa viết thường. Tri thường viết minh. Ích sinh viết bất tường. Tâm sử khí viết cường.
Xương yếu gân mềm mà nắm chặt, chưa biết mái với đực mà cái dái dựng đứng, tinh khí vậy đó. Cả ngày gào thét nhưng không khàn, xướng họa vậy đó. Biết hòa¹ gọi là thường², biết thường gọi là sáng suốt. Túng dục tham sinh gọi là họa. Để lòng dạ sai khiến cái khí gọi là cường.

Vật tráng tắc lão, vị chi bất Đạo, bất Đạo tảo dĩ.
Vật cường tráng thì sẽ già, thế là trái đạo, trái đạo thì chóng tàn.

1. Hòa hợp.
2. Bất biến.

五十六、 玄德 [huyền đức]


Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri.
Người biết thì không nói, người nói thì không biết.

Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần. Thị vị huyền đồng.
Ngăn mọi lối, chặn mọi cửa, bẻ gãy cái sắc nhọn, tháo cái rối, làm dịu cái sáng, hòa với bụi bặm. Thế gọi là huyền đồng¹.

Cố bất khả đắc nhi thân, diệc bất khả đắc nhi sơ, bất khả đắc nhi lợi, diệc bất khả đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, diệc bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ quí.
Cho nên không thể thân gần được, thờ ơ cũng không được, lợi dụng cũng không được, hại cũng không được, quí cũng không được, khinh rẻ cũng không được. Vì vậy không gì quí hơn trong thiên hạ.

1. Hòa đồng một cách hoàn toàn.

五十七、 淳風 [thuần phong]


Dĩ chính trị quốc, dĩ kỳ dụng binh, dĩ vô sự thủ thiên hạ.
Lấy ngay trị nước, lấy khôn dùng binh, lấy vô sự được thiên hạ.

Ngô hà dĩ tri kỳ nhiên tai? Dĩ thử: thiên hạ đa kỵ húy, nhi dân di bần. Triều đa lợi khí, quốc gia tư hôn. Nhân đa kỹ xảo, kỳ vật tư khởi. Pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu.
Ta làm sao biết được như vậy? Bởi vì: thiên hạ càng nhiều điều cấm kỵ, thì dân càng nghèo túng. Triều đình càng lắm lợi khí, thì quốc gia càng tối tăm. Người càng tài khéo, vật lạ càng nẩy sinh, pháp lệnh càng rõ rệt, trộm cướp càng nhiều.

Cố thánh nhân vân: ngã vô vi nhi dân tự hóa, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nhi dân tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác.
Vì thế thánh nhân bảo rằng: ta vô vi mà dân tự giáo hóa, ta ưa tĩnh mà dân tự thuần chính, ta vô sự mà dân tự dồi dào, ta vô dục mà dân tự chất phác.

五十八、 順化 [thuận hóa]


Kỳ chính muộn muộn, kỳ dân thuần thuần. Kỳ chính sát sát, kỳ dân khuyết khuyết.
Chính lệnh lờ mờ, dân chúng ôn hòa. Chính lệnh rõ rệt, dân chúng thiếu thốn.

Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục. Thục tri kỳ cực? Kỳ vô chính, chính phục vi kỳ, thiên phục vi yêu. Nhân chi mê, kỳ nhật cố cửu.
Họa vậy là nơi phúc tựa, phúc vậy là nơi họa nấp. Ai biết được tận cùng? Không ngay thẳng, thì đúng lại trở thành sai trái, thiện lại hóa thành tà. Con người vốn đã lầm lạc từ lâu rồi.
耀
Thị dĩ thánh nhân phương nhi bất cát, liêm nhi bất quế, trực nhi bất tứ, quang nhi bất diệu.
Vì vậy thánh nhân ngay thẳng nhưng không gây hại, thanh liêm nhưng không làm tổn thương, thẳng thắn nhưng không phóng túng, sáng sủa nhưng không chói lóa.

五十九、 守道 [thủ đạo]


Trị nhân, sự thiên mạc nhược sắc.
Trị người, làm việc trời không gì bằng tiết độ.

Phù duy sắc, thị vị tảo phục, tảo phục vị chi trọng tích đức. Trọng tích đức tắc vô bất khắc. Vô bất khắc tắc mạc tri kỳ cực. Mạc tri kỳ cực, khả dĩ hữu quốc.
Chỉ tiết độ, vì thế sớm thuận lẽ phải, theo lẽ phải thì tích nhiều đức, tích đức cao dày thì không gì không làm được, không gì không làm được thì tuyệt không biết tột cùng, không biết tột cùng thì có thể có được nước.

Hữu quốc chi mẫu, khả dĩ trường cửu. Thị vị thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo.
Nắm được gốc rễ của quốc gia, thì có thể tồn tại lâu dài. Đó gọi là rễ sâu gốc vững, trông thấy cái đạo trường tồn.

六十、 居位 [cư vị]


Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên.
Trị nước lớn cũng như nấu cá tươi.

Dĩ đạo lỵ thiên hạ, kỳ quỉ bất thần. Phi kỳ quỉ bất thần, kỳ thần bất thương nhân. Phi kỳ thần bất thương nhân, thánh nhân diệc bất thương nhân. Phù lưỡng bất tương thương, cố đức giao qui yên.
Dùng đạo trị thiên hạ, thì quỉ không thần thông. Chẳng những quỉ không thần thông, mà thần thánh cũng không hại người. Chẳng những thần không hại người, thánh nhân cũng không hại người. Cả hai không tổn thương lẫn nhau, cho nên đức cùng trở lại nơi đó.

六十一、 謙德 [khiêm đức]


Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn.
Nước lớn ở vị trí chỗ thấp, là nơi qua lại của thiên hạ, là âm hộ của thiên hạ.

Tẫn thường dĩ tĩnh thắng mẫu, dĩ tĩnh vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc, tắc thủ tiểu quốc. Tiểu quốc dĩ hạ đại quốc, tắc thủ đại quốc. Cố hoặc hạ dĩ thủ, hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân, tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc kỳ sở dục, đại giả nghi vi hạ.
Con mái thường lấy tĩnh mà thắng con đực, lấy tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nếu nước lớn mà hạ mình trước nước nhỏ, thì sẽ có được nước nhỏ. Nước nhỏ mà hạ mình trước nước lớn, thì được nước lớn. Cả hai đều được như ý muốn, lớn thì nên khiêm hạ.

六十二、 為道 (貴道) [vi đạo (quí đạo)]


Đạo giả vạn vật chi áo, thiện nhân chi bửu, bất thiện nhân chi sở bảo.
Đạo là chỗ ẩn náo của vạn vật, là châu báu của người lành, là nơi nương tựa của kẻ bất thiện.

Mỹ ngôn khả dĩ thị tôn, mĩ hạnh khả dĩ gia nhân. Nhân chi bất thiện, hà khí chi hữu?
Lời nói hay có thể tỏ rõ sự tôn trọng, hành vi đẹp có thể tăng thêm phẩm giá. Người bất thiện ấy, sao có thể quên?

Cố lập thiên tử, trí tam công, tuy hữu củng bích dĩ tiên tứ mã, bất như tọa tiến thử đạo.
Cho nên lập ra thiên tử, đặt ngôi tam công, dù cho có chắp tay bưng ngọc đi trước xe tứ mã, cũng không bằng ngồi dâng đạo ấy.

Cổ chi sở dĩ quí thử đạo giả hà? Bất viết: cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quí dã.
Vì sao xưa kia người ta quí trọng đạo này? Há chẳng phải: vì cầu thì được, có tội thì được tha thứ chăng? Cho nên khắp thiên hạ đều quí trọng.

六十三、 思始 [tư thủy]


Vi vô vi, sự vô sự, vị vô vị. Đại tiểu đa thiểu, báo oán dĩ đức.
Làm mà không làm, thì sự cũng vô sự, vị cũng vô vị. Lớn nhỏ nhiều ít, lấy đức báo oán.

Đồ nan ư kỳ dị, vi đại ư kỳ tế. Thiên hạ nan sự, tất tác ư dị. Thiên hạ đại sự, tất tác ư tế. Thị dĩ thánh nhân chung bất vi đại, cố năng thành kỳ đại.
Giải quyết cái khó từ cái dễ, làm cái lớn từ cái nhỏ. Việc khó khăn trên đời, phải làm từ dễ. Việc lớn trên đời, phải làm từ cái nhỏ. Vì vậy thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn, mà thực hiện được việc lớn.

Phù khinh nặc, tất quả tín. Đa dị tất đa nan, thị dĩ thánh nhân do nan chi, cố chung vô nan.
Kẻ coi nhẹ lời hứa ắt ít lòng thành, lời nói càng dễ cho đi ắt càng khó thành. Vì vậy thánh nhân chỉ thấy khó, nên cuối cùng không gì khó khăn cả.

六十四、 守微 [thủ vi]


Kỳ an dị trì, kỳ vị triệu dị mưu, kỳ thúy dị phán, kỳ vi dị tán. Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn.
Cái yên dễ giữ, cái chưa nhiều dễ tính, cái giòn dễ vỡ, cái cực nhỏ dễ tan. Làm lúc chưa có, trị lúc chưa loạn.

Hợp bão chi mộc, sinh ư hào mạt. Cửu tằng chi đài, khởi ư lũy thổ. Thiên lý chi hành, thủy ư túc hạ.
Cây to ôm được, khởi từ ngọn nhỏ. Đài chín tầng, khởi từ đống đất. Đi xa ngàn dặm, bắt đầu từ một bước chân.

Vi giả bại chi, chấp giả thất chi. Thị dĩ thánh nhân vô vi cố vô bại, vô chấp cố vô thất.
Làm thì hỏng, giữ thì mất. Vì vậy thánh nhân không làm nên không hỏng, không giữ nên không mất.

Dân chi tùng sự, thường ư cơ thành nhi bại chi. Thận chung như thủy, tắc vô bại sự.
Dân khi tiến hành việc, thường bại lúc sắp thành. Cẩn thận từ đầu đến cuối, thì không hỏng việc.
¹,
Thị dĩ thánh nhân dục bất dục, bất quí nan đắc chi hoá. Học bất học, phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên nhi bất cảm vi.
Do đó thánh nhân muốn cái không ham muốn, không quí của cải khó được. Học cái không học được, trở lại nơi chúng nhân làm trái lẽ, giúp vạn vật theo tự nhiên mà không dám làm quá.

1. Làm việc trái lẽ gọi là quá.

六十五、 純德 [thuần đức]


Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi.
Người xưa khéo thi hành đạo, không làm dân biết rõ, mà lại làm cho dân ngu dốt.

Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc. Bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc.
Dân mà khó trị, là vì đa mưu. Cho nên dùng trí trị nước, là hủy hoại nước. Không dùng trí trị nước, là phúc cho nước.

Tri thử lưỡng giả diệc khải thức. Thường tri khải thức, thị vị huyền đức. Huyền đức thâm hĩ viễn hĩ, dữ vật phản hĩ. Nhiên hậu nãi chí đại thuận.
Biết được hai điều này cũng là mẫu mực. Luôn biết mẫu mực, thì gọi là huyền đức. Huyền đức sâu xa vậy, tưởng là ngược với vật nhưng cuối cùng thật là xuôi.

六十六、 後己 [hậu kỷ]


Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiện hạ chi. Cố năng vi bách cốc vương.
Sông biển sở dĩ làm vua trăm hang suối, chính vì khéo ở chỗ thấp, vì thế nên làm vua trăm hang suối.

Thị dĩ dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi. Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng, xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm, dĩ kỳ bất tranh.
Vì vậy thánh nhân muốn ngồi trên dân, ắt phải lấy lời mà hạ mình. Muốn đứng trước dân, ắt phải để thân mình ra sau. Vậy nên thánh nhân ở trên dân mà dân không thấy nặng. Ở trước mà dân không thấy hại. Cho nên thiên hạ vui vẻ đùn đẩy lên trước mà không chán. Vì không tranh, nên thiên hạ tuyệt không tranh giành với y.

六十七、 三寶 [tam bảo]


Thiên hạ giai vị ngã đại tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu. Nhược tiếu cửu hĩ, kỳ tế dã phù.
Thiên hạ đều cho rằng đạo của ta lớn, nhưng có vẻ không xứng. Chính vì vĩ đại, cho nên có vẻ không xứng. Nếu đã xứng từ lâu, thì chỉ là vật nhỏ mọn thôi.

Ngã hữu tam bảo, trì nhi bảo chi. Nhất viết từ, nhị viết kiệm, tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng dũng, kiệm cố năng quảng, bất cảm vi thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng.
Ta có ba báu vật, nắm giữ chắt chiu. Một là khoan từ¹, hai là tiết độ, ba là không dám đứng trước thiên hạ². Khoan từ nên mới dũng mãnh, tiết độ nên mới rộng rãi, không dám đứng trước thiên hạ, nên mới được coi trọng lâu dài.

Kim xả từ thả dũng, xả kiệm thả quảng, xả hậu thả tiên, tử hĩ.
Nay bỏ từ mà muốn dũng mãnh, bỏ tiết độ mà muốn rộng rãi, bỏ chỗ sau mà muốn tranh chỗ trước, chết thay.

Phù từ dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố. Thiên tương cứu chi, dĩ từ vệ chi.
Lấy khoan từ mà tranh đấu sẽ thắng, mà cố thủ sẽ vững. Trời phù trợ cứu ai, lấy khoan từ bảo vệ y.

1. Khoan dung, nhân từ.
2. Coi mình hơn người.

六十八、 配天 [phối thiên]


Thiện vi sĩ giả bất vũ, thiện chiến giả bất nộ, thiện thắng địch giả bất dữ.
Làm tướng giỏi không dùng vũ lực, đánh nhau khéo không nổi giận, thắng địch khéo không giao tranh.

Thiện dụng nhân giả vi chi hạ. Thị vị bất tranh chi đức, thị vị dụng nhân chi lực, thị vị phối thiên cổ chi cực.
Khéo dùng người là hạ mình xuống. Gọi là cái đức không tranh, là biết dùng sức người, là hòa hợp với cột trụ của trời.

六十九、 玄用 [huyền dụng]

退
Dụng binh hữu ngôn: ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách, bất cảm tiến thốn nhi thoái xích.
Thuật dụng binh có câu: ta không dám làm chủ mà làm khách, không dám tiến một tấc mà lui mười tấc¹.

Thị vị hành vô hành, nhương vô tí, nhưng vô địch, chấp vô binh.
Gọi là hành vô hành, lấy mà giấu tay, ném mà không có đích, bắt mà không cần binh.

Họa mạc đại ư khinh địch, khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng binh tương gia, ai giả thắng hĩ.
Không họa nào lớn hơn là khinh địch, khinh địch nguy cơ đánh mất báu vật² của ta. Cho nên khi giao tranh, ai thương xót sẽ thắng.

1. Một thước bằng mười tấc.
2. Tam bảo trong chương 67.

七十、 知難 [tri nan]


Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.
Lời dạy của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm. Vậy mà thiên hạ chẳng ai hiểu nổi, chẳng ai làm nổi.

Ngôn hữu tông, sự hữu quân.
Lời nói có gốc, việc làm có chủ.

Phù duy vô tri, thị dĩ ngã bất tri. Tri ngã giả Hi, tắc ngã giả quí. Thị dĩ thánh nhân bị hạt hoài ngọc.
Người do không biết thế, nên không hiểu ta. Người hiểu ta rất ít, theo ta cũng rất hiếm. Cho nên thánh nhân mặc áo vải thô nhưng trong lòng ôm ngọc.

七十一、 知病 [tri bệnh]


Tri bất tri thượng. Bất tri tri bệnh.
Biết mà không biết là tốt nhất. Không biết mà cho là biết thì là bệnh.

Thánh nhân bất bệnh, dĩ kỳ bệnh bệnh.
Thánh nhân không bệnh, bởi vì biết bệnh là bệnh.

Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.
Chỉ có biết bệnh là bệnh, thì mới không bệnh.

七十二、 愛己 [ái kỷ]


Dân bất úy uy, tắc đại uy chí.
Dân không sợ oai, thì uy quyền mới đến.

Vô hiệp kỳ sở cư, vô yếm kỳ sở sinh. Phù duy bất yếm, thị dĩ bất yếm.
Không khinh thường nơi dân chúng ở, không ép bức nơi dân chúng sống. Người không đè ép, cho nên không bị ghét bỏ.

Thị dĩ thánh nhân tự tri bất tự kiến, tự ái bất tự quí. Cố khứ bỉ, thủ thử.
Vì vậy thánh nhân tự biết mà không tự biểu lộ, tự hiểu mà không tự tôn. Cho nên bỏ cái kia giữ cái này.

七十三、 任為 [nhiệm vi]


Dũng ư cảm tắc sát. Dũng ư bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi hoặc hại.
Mạnh mẽ dám làm thì chết, mạnh mẽ chẳng dám làm thì sống. Hai cái đó hoặc lợi hoặc hại.

Thiên chi sở ố, thục tri kỳ cố. Thị dĩ thánh nhân do nan chi.
Cái mà trời ghét, ai mà biết được cớ gì? Nên thánh nhân vẫn còn thấy khó.
¹
Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai, thản nhiên nhi thiện mưu.
Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà tự đến, thản nhiên mà khéo tính.

Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất.
Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.

1. Có sách viết là (xiển).

七十四、 制惑 [chế hoặc]

使
Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường úy tử, nhi vi kỳ giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm.
Dân không sợ chết, làm sao lấy cái chết để dọa nạt được? Nếu khiến dân luôn sợ chết, mà có kẻ làm ngang trái, ta có thể bắt giữ và giết, ai dám làm?

Thường hữu tư sát giả sát.
Luôn luôn có kẻ xử việc giết chóc.

Phù đại tư sát giả sát, thị vị đại đại tượng trác. Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kỳ thủ hĩ.
Người đại diện xử việc giết chóc, thì gọi là thợ đẽo giỏi. Người thay kẻ lấy rìu đẽo cây, hiếm khi không làm tổn thương đến tay vậy.

七十五、 貪損 [tham tổn]


Dân chi cơ, dĩ kỳ thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ.
Dân đói, là vì phía trên thu thuế nhiều, nên mới đói.

Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị.
Dân khó trị, là vì phía trên lắm luật lệ¹, nên khó trị.

Dân chi khinh tử, dĩ kỳ cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử.
Dân coi thường cái chết, là vì phía trên tham sống nhiều, nên mới khinh chết.

Phù duy vô dĩ sinh vi giả, thị hiền ư quí sinh.
Chỉ có người không sống để giữ chức, là người có đức hạnh và quí sự sống.

1. Tức hữu vi.

七十六、 戒強 [giới cường]


Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử dã kiên cường.
Người khi sinh ra thì mềm yếu, khi chết đi thì cứng rắn.

Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thúy, kỳ tử dã khô cảo.
Vạn vật cỏ cây khi sinh ra thì mềm yếu, khi chết đi thì khô héo.

Cố kiên cường giả tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi đồ.
Cho nên kiên cường là đường chết, mềm yếu là đường sống.
¹。
Thị dĩ binh cường tắc bất thắng, mộc cường tắc chiết.
Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt.

Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng.
Cho nên kiên cường ở dưới, mềm yếu ở trên.

1. Có sách viết là , tức binh, nếu là động từ có nghĩa là chặt, đốn.

七十七、 天道 [thiên đạo]


Thiên chi đạo, kỳ do trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc.
Đạo của trời, giống như việc giương cung ư? Cái cao thì kéo xuống, cái thấp thì nâng lên, cái dư thì bớt đi, cái thiếu thì bù vào. Đạo của trời, bớt cái dư mà bù cái thiếu.

Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc nhi phụng hữu dư. Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả.
Đạo người chẳng như thế, lấy bớt từ người thiếu để dâng cho người thừa. Ai có thể có dư để dâng hiến cho thiên hạ? Chỉ có người có đạo.

Thị dĩ thánh nhân, vi nhi bất thị. Công thành nhi bất xử, kỳ bất dục kiến hiền.
Do đó thánh nhân làm mà không cậy công. Thành công mà không chiếm giữ, đó là vì không muốn biểu lộ đức hạnh.

七十八、 任信 [nhiệm tín]


Thiên hạ mạc nhu nhược ư thuỷ, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng, dĩ kì vô dĩ dịch chi.
Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, thế mà khi tấn công vào những thứ kiên cường, tuyệt không gì có thể thắng nổi nó. Vì không có gì thay đổi được nó.

Nhược chi thắng cường, nhu chi thắng cương, thiên hạ mạc bất tri, mạc năng hành.
Yếu thắng mạnh, mềm thắng cứng, thiên hạ ai cũng biết, nhưng không ai làm được.

Thị dĩ thánh nhân vân: thụ quốc chi cấu, thị vị xã tắc chủ. Thụ quốc bất tường, thị vị thiên hạ vương. Chính ngôn nhược phản.
Do đó thánh nhân bảo: nhận lấy cái nhơ bẩn của quốc gia, đó gọi là chủ của đất nước. Nhận lấy cái bất hạnh của quốc gia, đó gọi là vua của thiên hạ. Lời nói chính trực dường như trái ngược.

七十九、 任契 [nhiệm khế]


Hòa đại oán, tất hữu dư oán. An khả dĩ vi thiện?
Hòa được oán lớn, ắt còn oán thừa. Há sao có thể cho là phải được?
¹,
Thị dĩ thánh nhân chấp tả khế, nhi bất trách ư nhân.
Cho nên thánh nhân giữ lời hứa, nhường mà không oán trách người.

Hữu đức tư khế, vô đức tư triệt.
Có đức thì giữ trách nhiệm, vô đức thì đòi người trả.

Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân.
Đạo trời không thân cận ai, luôn ở bên người lành.

1. Ngày xưa, một tờ giấy viết, xé đôi ra, mỗi người giữ một mảnh gọi là khế (), tức như giấy hợp đồng bây giờ. Bản bên trái (左契) không được coi trọng bằng bản bên phải. Giữ bản bên trái tức là có ý nhường người, không tranh với người.

八十、 獨立 [độc lập]

使使
Tiểu quốc quả dân, sử hữu thập bách chi khí nhi bất dụng, sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ
Nước nhỏ ít dân, sở hữu khí cụ gấp chục gấp trăm số người nhưng không dùng, khiến dân coi trọng cái chết mà không đi xa.
輿
Tuy hữu chu dư, vô sở thừa chi. Tuy hữu giáp binh, vô sở trần chi.
Dù có thuyền xe, nhưng không nơi để đi. Dù có giáp binh, nhưng không nơi để bày.
使
Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi. Cam kỳ thực, mĩ kỳ phục, an kỳ cư, lạc kỳ tục.
Khiến dân trở lại thắt nút dây mà dùng¹. Ăn cơm ngon, mặc áo đẹp, an nhàn cư trú, đời thường vui vẻ.

Lân quốc tương vọng, kê khuyển chi thanh tương văn, dân chí lão tử bất tương vãng lai.
Các nước láng giềng nhìn được nhau, nghe thấy gà gáy chó sủa vang vọng qua lại, dân sống đến già cũng không qua lại với nhau.

1. Khi chưa có văn tự chữ viết, người ta dùng dây thắt nút để ghi nhớ.

八十一、 顯質 [hiển chất]


Tín ngôn bất mĩ, mĩ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện. Tri giả bất bác, bác giả bất tri.
Lời chân thật không hoa mĩ, lời hoa mĩ thì không chân thật. Người tốt không tranh biện, người tranh biện thì không tốt. Người hiểu biết không uyên bác, người uyên bác thì không hiểu biết.

Thánh nhân bất tích, ký dĩ vi nhân kỷ dư hữu, ký dĩ dữ nhân kỷ dũ đa. Thiên chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh.
Thánh nhân không tích trữ, càng giúp người thì càng dư dả, càng cho người thì càng thêm nhiều. Đạo của trời, chỉ có lợi mà không hại. Đạo của thánh nhân, làm mà không tranh giành.