Đạo Đức Kinh
Đa số các bản dịch tiếng Việt của
Tác phẩm này được cho là của
* Bản Đạo Đức kinh chương cú《道德經章句》của Hà Thượng Công (河上公) có 5201 chữ.
* Bản Lão tử Đạo Đức kinh chú《老子道德經注》của Vương Bật (王弼) có 5162 chữ.
* Bản viết lên thẻ tre tìm thấy tại Quách Điếm (郭店) trên 13000 chữ, trong đó hơn 2000 chữ giống các phiên bản khác.
Có nhiều phần sâu sắc và một số phần mờ hồ nhưng không mờ nhạt.
Đạo Đức Kinh là một tác phẩm dành cho các bậc trị quốc vì có chứa khá nhiều tư duy chính trị. Nhưng, có một vấn đề cơ bản: nếu như đã hiểu vô vi thì không làm vua. Để tiến tới làm vua làm chúa, thì phải muốn, tức hữu dục, mà hữu dục thì hữu vi. Vô vi chỉ có đường lui thân mà thôi, không làm chính trị, vì chính trị về căn bản là đam mê quyền lực, là hữu dục. Cho nên, những người ham muốn làm vua thì lại không hiểu Đạo Đức Kinh, còn người hiểu thì lại không muốn làm vua. Vì thiếu một sự điều tra hiện sinh về bản chất của tư duy, của bản ngã. Người ta không thể tìm thấy trật tự từ cái rối loạn được, phải nhìn vào cái rối loạn và hiểu rõ nó trước đã. Chủ đề chính của tác phẩm là vô vi (
Đây chỉ là bản dịch, cho vui và để học tiếng Trung là chính, không có thêm nhiều phán xét hay phân tích.
C.
上經 [Thượng kinh] - 道經 [Đạo kinh]
一、 體道 [thể đạo]
Đạo mà có thể theo được, không phải là đạo hằng cửu. Tên mà có thể gọi được, không phải là tên vĩnh cửu. |
Không tên là khởi điểm của trời đất. Có tên là mẹ của vạn vật. |
Không tư dục, mới nhận được sự huyền diệu của đạo. Đầy tư dục thì chỉ thấy cái bề ngoài của đạo. |
Cả hai cùng một nguồn thế mà tên thì khác. Đều gọi là Huyền. Huyền hoặc lại huyền diệu. Đó là cửa vào ra của mọi điều kỳ diệu. |
二、 養身 [dưỡng thân]
Khi thiên hạ đều biết đẹp là đẹp, thì xấu đã có rồi. Đều biết lành là lành, thì đã chẳng còn cái lành rồi |
Cho nên có với không cùng sinh, khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng dáng, cao và thấp cùng nghiêng, giọng và tiếng cùng họa, trước và sau cùng thuận. |
Vậy nên thánh nhân dùng vô vi mà xử sự, dạy dỗ mà không cần lời nói. |
Để cho vạn vật nên mà không cản, tạo ra mà không chiếm đoạt, làm mà không cậy công, thành công mà không lấy địa vị. |
Vì chẳng giữ, do đó không mất gì. |
三、 安民 [an dân]
Không sùng người tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô điều ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn. |
Vì vậy cái trị của thánh nhân, trống lòng, no dạ, yếu chí, mạnh xương. Luôn khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ có kiến thức không dám làm gì cả. |
Làm theo vô vi, ắt không có gì là không trị được. |
四、 無源 [vô nguyên]
Đạo trống không nên dùng mãi mà có lẽ không thừa thãi. |
Căn nguyên vậy như tổ tông vạn vật. |
Bẻ gãy cái sắc nhọn, tháo gỡ cái rối răm, làm dịu cái sáng, hòa hợp với bụi bặm. |
Dường như tĩnh lặng mà vẫn hiện hữu. |
Ta không biết Đạo mầm giống gì từ đâu. Hình như có trước cả thượng đế. |
五、 虛用 [hư dụng]
Trời đất không nhân tính, coi vạn vật như chó rơm. |
Thánh nhân không nhân từ, coi bách tính như chó rơm. |
Ở giữa trời đất, nó giống như then khóa chăng? |
Trống rỗng mà không thiếu sót, càng ra thì càng động. |
Nói nhiều tính hết, cũng không bằng giữ lại bên trong. |
六、 成象 [thành tượng]
Thần thung lũng bất tử, đó là cái khe suối huyền diệu. |
Cửa hang huyền diệu này, đúng là nền tảng trời đất. |
Miên man như tồn tại, dùng mà không bao giờ hết. |
七、 韜光 [thao quang]
Trời dài, đất lâu. Trời đất sở dĩ có lâu dài, chính vì không có cho mình, vì thế nên trường sinh. |
Vì vậy thánh nhân để bản thân ra sau mà vẫn ở trước, để thân ra ngoài mà vẫn tồn lại. |
Phải chăng vì vô tư? Nên xong việc riêng cũng vô tư. |
八、 易性 [dị tính]
Bậc thượng thiện giống như nước. |
Nước có ích cho muôn loài mà không tranh giành, ở chỗ mọi người đều thấy ghét, nên gần với đạo. |
Ở thì lựa đất, tâm thì từ đáy lòng, giúp đỡ thì tận tình, nói thì bằng lời thành thực, trị thì phải thích đáng, làm thì nhờ vào năng lực, hành động thì theo thời. |
Chỉ người ấy không tranh, nên không lầm lỗi. |
九、 運夷 [vận di]
Giữ cho đầy mãi, chớ bằng dừng lại. |
Cầm nắm cái sắc bén, chớ giữ được lâu. |
Vàng ngọc đầy nhà, chớ nắm giữ được. |
Giàu sang mà kiêu căng, tự vác tai họa. |
Việc xong, lòng thỏa, lui thân, ấy là đạo trời. |
十、 能為 [năng vi]
Nâng đỡ linh hồn của đạo, có thể không lìa xa không? |
Dồn khí đến mức mềm mại, có thể như một đứa bé không? |
Quét bỏ cái nhìn đen tối, có thể không lỗi lầm không? |
Yêu dân trị nước, có thể làm mà không làm không? |
Cửa trời khép mở, có thể thành mềm yếu không? |
Sáng rõ thông suốt, có thể không cần biết không? |
Sinh như vạn vật, sống như không có gì, làm mà không cậy, tài giỏi mà không đòi làm chủ, đó là đức huyền. |
十一、 無用 [vô dụng]
Ba chục căm, hợp lại một bầu, chống giữ trống không, mới có xe để đi. |
Chộn đất làm đồ dùng, chống giữ trống không, mới có đồ để dùng. |
Đục cửa làm nhà, chống giữ trống không, mới có nhà để ở. |
Cho nên lấy có để làm lợi, lấy cái không để dùng. |
十二、 檢欲 [kiểm dục]
Năm màu khiến người mù mắt. Năm tiếng khiến người điếc tai. Năm vị khiến người tê lưỡi. Ruổi rong đuổi nhau săn bắn, khiến lòng người phát cuồng. Của cải khó được là nạn, khiến người bị hại. |
Bởi vậy thánh nhân vì bụng không vì mắt, cho nên bỏ cái kia giữ cái này. |
十三、 厭恥 [yếm sỉ]
Vinh nhục làm lo âu, coi trọng làm hại bản thân. |
Tại sao vinh nhục đều làm lo âu? Vinh làm ra nhục, được cũng lo, mất cũng lo. Vì thế nên nói vinh nhục đều làm lo âu. |
Tại sao coi trọng làm hại bản thân? Ta sở dĩ có hoạn lớn này, chính vì ta có bản thân, còn không có bản thân, ta gì có hoạn nào? |
Cho nên ai quí thiên hạ hơn bản thân mình, thì có thể đem thiên hạ giao phó cho. Ai yêu thiên hạ hơn bản thân mình, thì có thể gửi gắm thiên hạ cho họ được. |
十四、 贊玄 [tán huyền]
Nhìn không thấy, gọi là bằng |
Trên nó không sáng, dưới nó không mờ. Miên man mà không tên, rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là diện mạo của cái không, hình dáng của cái vô vật, gọi là mơ hồ. Đón thì không thấy đầu, theo thì không thấy đuôi. |
Giữ cái đạo xưa, để cai trị chuyện nay. Biết cái nguyên thủy, ấy là đầu mối của đạo. |
十五、 顯德 [hiển đức]
Người hiền thiện là sĩ giả, ẩn giấu huyền diệu uyên bác, nơi mà kiến thức cũng không chạm tới được. Vì không thể hiểu được, nên đành miễn cưỡng mô tả. |
Do dự như qua sông mùa đông. Ngờ như tứ phía nguy. Nghiêm trang như khách. Li tan như băng. Chất phác như gỗ thô. Rộng lớn như thung lũng. Hỗn mang như nước đục. |
Ai có thể ngừng đục, lặng lẽ từ từ trong? Ai có thể yên đợi, động đậy dần dần nẩy nở? |
Kẻ giữ đạo ấy, không ham muốn tích lũy. Vì y không tích lũy, nên che đậy cái mới được. |
十六、 歸根 [qui căn]
Trí trống rỗng tột cùng, hết sức yên tĩnh. |
Vạn vật cùng nên, ta theo xem lập lại. Vạn vật gieo rắc, đều cùng trở về cội. |
Trở về nguồn căn gọi là tĩnh, tĩnh là phục mệnh. Phục mệnh là thường đạo. |
Hiểu được cái bất biến gọi là sáng suốt. Không hiểu cái bất biến, sai lầm gây hung hoạ. |
Hiểu thường đạo thì khoan dung, bao dung nên là công bằng, công bằng nên là thịnh vượng, thịnh vượng nên là thiên tính, thiên tính nên là chân lý, chân lý nên là vĩnh cửu, không có bản thân thì chẳng nguy. |
十七、 淳風 [thuần phong]
Thái thượng, dưới đều biết chỉ có thôi. |
Dưới một bậc, họ yêu quí và khen ngợi. Thấp hơn, họ sợ. Kém hơn, họ khinh. Còn không đủ thành tín, thì dân không tin. |
Nhàn rỗi vậy, có lẽ quí lời nói. Công thành sự toại, mà dân đều tưởng rằng do công mình. |
十八、 俗薄 [tục bạc]
Đại đạo mất, mới có nhân nghĩa. Tài trí sinh ra, mới có đạo đức giả. |
Gia đình bất hòa, mới có kẻ hiếu người từ. |
Quốc gia rối loạn, mới có trung thần. |
十九、 還淳 [hoàn thuần]
Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm. |
Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ. |
Dứt tài bỏ lợi, không có trộm cướp. |
Ba điều ấy chỉ văn hoa bề ngoài, không đầy đủ. |
Cho nên lệnh phụ thuộc vào. Giữ lấy mộc mạc bốc phác. Ít việc riêng thì ít ham muốn. |
二十、 異俗 [dị tục]
Dứt học hết lo, dạ với ơi, cách nhau bao xa? Lành với dữ, khác nhau là mấy? |
Chỗ mà người sợ, không thể không sợ. Hoang vu vậy vô tận lắm. |
Người đời hớn hở, như hưởng vinh quang, như mùa xuân lên đài. |
Ta bình thản với những gì sắp xảy ra. Như trẻ thơ chưa biết mỉm cười. Lững thững như không có nơi về. |
Chúng nhân có thừa, thế mà một mình ta thiếu thốn. Lòng ta ngu dốt thay, mù mịt tay. Mờ mịt vậy, người đời sáng tỏ, chỉ riêng ta mịt mù. Người đời rộn rã, chỉ riêng ta buồn bã. Vắng lặng như biển khơi, vi vu như gió thổi mạnh. Mọi người đều có lý do riêng, chỉ riêng ta dốt nát và hèn mọn. |
Riêng ta sống khác người, mà quí trọng mẹ muôn loài. |
二十一、 虛心 [hư tâm]
Dung mạo của đức lớn, chỉ tùy theo đạo. |
Đạo là muôn vật, vì mơ hồ và mập mờ. Không đích xác vậy, mới ẩn chứa những điều xâu xa. Không rõ ràng vậy, mới có điều gì đó tồn tại. Âm u yểu điệu vậy, mới có tinh hoa. Tinh túy chân thực vậy, trong đó có đức tín. |
Từ xưa đến nay, danh tiếng không phai mờ, soi sáng cho vạn vật. |
Ta làm sao biết được trạng thái vạn vật sở khai đấy? Do cái ấy. |
二十二、 益謙 [ích khiêm]
Cong thì sẽ toàn vẹn, queo thì sẽ thẳng, lõm thì sẽ đầy, rách nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được, nhiều thì sẽ mê. |
Cho nên thánh nhân ôm giữ đạo, để làm mẫu cho thiên hạ. Không tự cho là biết, nên sáng suốt. Không tự cho là đúng, nên rõ ràng. Không tự khoe công, nên có công. Không tự kiêu, nên tài giỏi. |
Vì không tranh giành, cho nên thiên hạ không ai có thể tranh giành được. |
Từ thuở xa xưa người ta nói uốn cong mà vẫn trọn vẹn, há chăng phải là lời nói suông. Thật sự toàn vẹn thì đâu sẽ trở về với đó. |
二十三、 虛無 [hư vô]
Lời nói ít, tự nhiên. |
Vì gió lốc không thổi suốt sáng, mưa rào không thông suốt ngày. Ai tạo ra điều ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể trường tồn, huống chi con người? |
Cho nên người theo đạo thì đồng với đạo. Theo đức, thì đồng với đức. Theo mất, thì đồng với mất. Đồng với đạo, đạo cũng vui tiếp nhận. Đồng với đức, đức cũng vui tiếp nhận. Đồng với mất, mất cũng vui tiếp đó. |
Lòng tin không đủ ở đâu. Ở đó, có điều không đáng tin. |
二十四、 苦恩 [khổ ân]
Người kiễng chân không đứng vững. Người bước sải dài không di động. Người tự cho là biết không sáng suốt. Người tự coi là đúng không rõ ràng. Người tự kể công không có công. Người tự kiêu không có tài. |
Đứng về phương diện đạo, thì đó là những đồ thừa việc thải. Vạn vật đều ghét bỏ, cho nên người có đạo không thiết. |
二十五、 象元 [tượng nguyên]
Có vật hỗn thành, sinh trước trời đất. Yên lặng trống không, đứng một mình, không thay đổi, vận hành không ngừng nghỉ. Có thể làm mẹ của trời đất. |
Ta không biết tên nó, gọi nó là đạo. Gượng ép gọi nó là dòng lớn. Dòng lớn chảy qua, chảy đi xa, rồi trở lại. |
Cho nên đạo lớn, thì trời lớn, đất lớn, vua cũng lớn. Vùng trời đất có bốn cái lớn, mà vua giữ một trong số đó. Người theo phép đất, đất theo phép trời, trời theo phép đạo, đạo theo phép tự nhiên. |
二十六、 重德 [trọng đức]
Nặng là gốc của nhẹ. Tĩnh là chủ của động. |
Cho nên thánh nhân suốt ngày rong ruổi mà không bỏ mất hành lý. Dù có vinh hoa phú quí, vẫn giữ tâm hồn thanh cao, thoát tục. |
Làm sao một kẻ nắm giữ quyền lực tối cao lại có thể coi nhẹ thiên hạ? Nhẹ ắt mất gốc, vội vàng ắt mất chủ. |
二十七、 巧用 [xảo dụng]
Đi khéo không để lại dấu vết. Nói khéo không để lại lỗi lầm. Đếm khéo không cần dùng đến thước đếm. Cửa đóng không cần then mà vẫn không thể mở. Nút thắt không dây mà không thể tháo. |
Vì vậy thánh nhân thường khéo cứu người, nên không có ai bị bỏ. Thường khéo cứu vật, nên không vật nào bị bỏ. Được gọi là kế thừa ánh sáng. |
Cho nên người khéo là thầy của kẻ dở. Kẻ dở là cơ hội để người khéo giúp đỡ. Không trân trọng thầy, không quí mến kinh nghiệm, dù có trí thì vẫn ngu muội, khéo léo là ở chỗ đó. |
二十八、 反朴 [phản phác]
Biết mạnh, giữ nhu, làm khe suối cho thiên hạ. Làm khe suối cho thiên hạ, thường đức không lìa, trở về thuần khiết. |
Biết sáng, giữ tối, làm phép tắc cho thiên hạ. Làm phép tắc cho thiên hạ, thường đức không sai, trở về vô cực. |
Biết vinh, giữ nhục, làm thung lũng cho thiên hạ. Làm thung lũng cho thiên hạ, thường đức đầy đủ, trở về mộc mạc. |
Mộc mạc thì thành độ lượng, thánh nhân dùng nó thì làm quan giỏi, cho nên đại phép tắc không phân chia. |
二十九、 無為 [vô vi]
Kẻ muốn lấy thiên hạ mà làm chủ, ta thấy không thể được. Thần khí của thiên hạ, không thể nắm giữ, làm thì bại, giữ thì mất. |
Cho nên vật hoặc đi hoặc theo, hoặc hít hoặc thở, hoặc mạnh hoặc yếu, hoặc nâng hoặc hủy. |
Vì vậy thánh nhân từ bỏ cái quá đáng, cái quá đỗi |
三十、 儉武 [kiệm vũ]
Dùng đạo để phụ tá cho vua chúa, không dùng binh cưỡng bách thiên hạ. Mọi chuyện sẽ suôn sẻ. Nơi nào lính đóng, gai góc mọc lên. Sau khi đại quân qua, ắt có năm hạn. |
Cho nên không có gì hơn làm điều thiện để có thành quả, mà không cần dùng sức. Làm mà chớ kiêu căng, chớ khoe khoang, chớ cao ngạo. Bất đắc dĩ, làm mà đừng cưỡng cầu. |
Vật mạnh ắt già, như vậy là trái đạo, trái đạo sẽ mất sớm. |
三十一、 偃武 [yển vũ]
Binh đao tốt nhất, là vật hung dữ, ai cũng ghét bỏ, cho nên người có đạo chẳng dùng. |
Người quân tử ở nhà thì trọng bên trái, dùng binh thì trọng bên phải. Vũ khí là vật không may mắn, không phải là vật của người quân tử, bất đắc dĩ mới dùng, giữ thái độ bình thản là trên hết. Thắng mà không đẹp, mà lại đẹp đẽ hóa nó, đó là thích giết người. Kẻ thích giết người, thì không thể thành công trên đời. |
Lành ở bên trái, dữ ở bên phải. Phó tướng ở bên trái, thượng tướng ở bên phải, đó là nghi tiết dùng trong tang lễ. Khi giết nhiều người, phải khóc lóc xót thương, chiến thắng cũng phải đứng làm chủ tang. |
三十二、 聖德 [thánh đức]
Thường đạo không tên. Tuy giản dị, nhưng cả thiên hạ không ai dám coi thường. Vua chúa nếu có thể giữ được nó, vạn vật sẽ tự nhiên quy phục. Trời đất hòa hợp, mưa móc giáng xuống, dân không phải sai khiến, mà tự công bằng. |
Phép chế thì đều có tên, khi đã có danh phận, thì nên biết điểm dừng, biết dừng lại thì sẽ không nguy. Ví đạo với thiên hạ, như khe suối quy về sông biển. |
三十三、 辨德 [biện đức]
Biết người là khôn, biết mình là sáng. Thắng người là có sức mạnh, thắng mình là kiên cường. Biết đủ là giàu. Kiên cường là có chí. |
Không đánh mất cái gốc của mình thì sẽ trường tồn. Chết mà không mất đạo, thế là thọ. |
三十四、 任成 [nhiệm thành]
Đại đạo cuồn cuộn, có thể xoay chuyển trái phải. Vạn vật nhờ nó sinh mà không can thiệp, nên việc mà không nhận công, nuôi dưỡng muôn loài mà không làm chủ. Thường đạo vô dục, có thể coi là nhỏ bé. Muôn vật theo về mà không làm chủ, có thể gọi là lớn. |
Cái gì rốt cuộc không cho mình là lớn, vì vậy có thể thành việc lớn. |
三十五、 仁德 [nhân đức]
Nắm giữ bản chất căn bản, thiên hạ hướng về. Quy về mà không hại, là thái bình. |
Nhạc cùng thức ăn ngon, làm khách qua đường dừng bước. Đạo mà nói ra, nhạt nhẽo hay vô vị, nhìn không thấy, nghe không rõ, dùng mãi không hết. |
三十六、 微明 [vi minh]
Muốn thu lại, ắt phải mở ra. Muốn làm suy bại, ắt phải làm mạnh lên. Muốn phế bỏ, ắt đề cử lên. Muốn cướp lấy gì, ắt hãy cho đi. Đó gọi là vi minh. Nhu nhược thắng cương cường. |
Cá không thể rời khỏi nước sâu, đồ quốc bảo chẳng nên phô trương. |
三十七、 為政 [vi chính]
Thường đạo không làm gì nhưng không gì không làm được. |
Nếu bậc vương hầu biết giữ gìn đạo, thì muôn loài sẽ tự chuyển hóa. |
Khi chuyển hóa mà còn muốn thêm, ta sẽ dùng sự mộc mạc vô danh để trấn áp nó. Vậy thì người ta cũng sẽ không còn ham muốn. Không có ham muốn thì thanh tĩnh, thiên hạ sẽ tự được an định. |
下經 [Hạ kinh] - 德經 [Đức kinh]
三十八、 論德 [luận đức]
Bậc đức cao không tỏ vẻ có đức, nên mới có đức. Kẻ đức thấp cầu đức, vì thế nên không có đức. |
Bậc đức cao không làm nhưng không có ý làm. Kẻ đức thấp không làm nhưng vẫn có ý. |
Bậc thượng nhân làm nhưng không có ý làm. Bậc thượng nghĩa làm nhưng có ý làm. Bậc thượng lễ làm nhưng chẳng ai tiếp nhận, thì liền vén tay ép buộc. Cho nên mất đạo rồi mới có đức, mất đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới có nghĩa, mất nghĩa rồi mới có lễ, lễ đó là cái xấu xa |
Bởi vậy bậc đại trượng phu ở chỗ tốt lành, tránh chỗ xấu xa, ở chỗ thật thà |
三十九、 法本 [pháp bản]
Những thứ xưa được đạo, trời được đạo nên trong, đất được đạo nên yên, thần được đạo nên thiêng liêng, lũng được đạo nên tràn đầy, vạn vật được đạo nên nẩy nở, vua chúa được đạo nên thiên hạ trung thành. Đều do đạt đạo mà nên. |
Trời không thể trong sợ rằng sẽ nứt vỡ, đất không yên thì hư nát, thần không thiêng liêng thì sẽ tan mất, lũng không tràn đầy thì sẽ cạn, vạn vật không nẩy nở thì tuyệt diệt, vua chúa không cao quí thì sẽ mất ngôi. |
Cho nên sang lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền. Vì thế bậc vương hầu tự khiêm tốn xưng là cô |
Cho đến cùng, tiếng qua tiếng lại không quan trọng. Không nên rực rỡ như ngọc, mà sần sùi như đá. |
四十、 去用 [khử dụng]
Trở lại là cái động của đạo. Yếu mềm là cái dụng của đạo. |
Vạn vật trên trời dưới đất từ cái có mà sinh ra. Có sinh ra từ không. |
四十一、 同異 [đồng dị]
Thượng sĩ nghe đạo, siêng năng thực hành. Trung sĩ nghe đạo, có mà như không. Hạ sĩ nghe đạo, cười khanh khách. Không cười thì không đáng làm đạo. |
Nên người xưa nói rằng: đạo sáng dường như tối tăm, đạo tiến dường như lùi lại, đạo bằng phẳng dường như tì vết, đức cao dường như khe suối, to lớn dường như khuất nhục, đức rộng dường như không đủ, đức thẳng dường như bạc bẽo, đức thật dường như biến đổi. |
Vuông lớn không góc, tài lớn chậm thành, tiếng lớn ít lời, vật lớn không hình, đạo ẩn không tên. Chỉ có đạo, cho vay hào phóng mà lại thành. |
四十二、 道化 [đạo hóa]
Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật ôm dương cõng âm, khí xung khắc nhau mà hài hòa. |
Chỗ ghét ở người, cô đơn |
Điều người xưa dạy, nay ta cũng dạy, kẻ hung bạo không được chết tự nhiên, ta sẽ lấy làm bài học. |
四十三、 遍用 [biến dụng]
Cái mềm nhất trong thiên hạ, xuyên qua được cái cứng nhất, cái không có lọt qua được cái không hở. Ta lấy việc biết vô vi là có ích. |
Dạy mà không lời, ích của vô vi, thiên hạ hiếm ai thấu hiểu. |
四十四、 知止 [tri chỉ]
Danh với thân cái nào gần gũi? Thân với của cải cái nào hơn? Được với mất cái nào hại? |
Cho nên yêu nhiều ắt tổn nhiều, chứa nhiều ắt mất nhiều. Biết đủ không nhục, biết dừng không nguy, có thể trường cửu. |
四十五、 洪德 [hồng đức]
Cái trọn vẹn dường như thiếu sót, công dụng không có khuyết điểm. Cái vô cùng đầy đặn dường như trống rỗng, công dụng không thể cạn kiệt. Cái thẳng nhất dường như cong, cái khéo léo nhất dường như vụng về, hùng biện giỏi nhất dương như ấp ứng. |
Tĩnh thắng động, lạnh thắng nóng, thanh tĩnh làm thiên hạ ngay thẳng. |
四十六、 儉欲 [kiệm dục]
Thiên hạ có đạo, thì ngựa để chạy lùi về bón phân. Thiên hạ không đạo, ngựa chiến sinh ra ngoài đồng. |
Không họa nào lớn hơn không biết đủ. Không tội nào lớn hơn tham lam. Cho nên biết đủ là đủ, sẽ luôn luôn đủ. |
四十七、 鋻遠 [giám viễn]
Không ra khỏi nhà, mà biết thiên hạ. Không ngó qua cửa sổ, mà thấy đạo trời. Đi càng xa, biết càng ít. |
Vì vậy thánh nhân chẳng đi mà biết, chẳng thấy mà hay, chẳng làm mà nên. |
四十八、 忘知 [vong tri]
Theo học mỗi ngày một thêm, theo đạo mỗi ngày một bớt. Bớt rồi lại bớt nữa, cho đến vô vi. |
Không làm mà không gì không nên. Lấy thiên hạ luôn luôn trong vô sự. Lấy bằng hữu sự, không đủ để được thiên hạ. |
四十九、 任德 [nhiệm đức]
Thánh nhân không có định kiến, lấy lòng dạ của bách tính làm lòng dạ mình. Ta tốt với người tốt, với người không tốt ta cũng tốt, đắc thiện thay. Ta tin người đáng tin, với người không đáng tin ta cũng tin, đắc tín thay. |
Thánh nhân nơi thiên hạ, rụt rè vậy. Vì thiên hạ, tính tình hồn nhiên. Dân chúng đều để tai mắt vào y, thánh nhân đều coi chúng như con trẻ. |
五十、 貴生 [quí sinh]
Sống chết trên lằn dao. |
Có mười ba lối sống, mười ba lối chết, cuộc sống của người thường dẫn đến chỗ chết, mà cũng là mười ba. Tại sao vậy? Vì sinh sôi nảy nở nhiều. |
Nghe rằng người dưỡng sinh tốt, đi đường bộ không gặp thú dữ, nhập quân không bị chiến tranh. Tê giác không có chỗ nào để húc sừng, hổ không có chỗ nào để vồ móng vuốt, binh khí không có chỗ nào để đâm chém. Tại sao vậy? Vì không tiến tới chỗ chết. |
五十一、 養德 [dưỡng đức]
Đạo sinh, đức dưỡng, vật cấu thành hình, tình hình nên thành. Cho nên muôn vật đều tôn đạo quí đức. |
Đạo được kính trọng, đức được quí trọng, Tự nhiên vận hành chẳng ai ban hành. |
Cho nên đạo sinh, đức dưỡng, luôn luôn nuôi nấng, nên thành chín quả, săn sóc che chở. Sinh ra mà không sở hữu, làm mà không cậy, tài giỏi mà không đòi làm chủ, vậy gọi là đức huyền. |
五十二、 歸元 [qui nguyên]
Thiên hạ có khởi điểm, ấy là mẹ thiên hạ. Đã nắm được mẹ, thì biết được con. Đã hiểu được vạn vật, thì lại quay lại nắm khởi điểm. Suốt đời không nguy. |
Ngăn hết lối, đóng hết cửa, suốt đời không lo toan. Mở các lối, giúp sự cố, suốt đời không cứu được. |
Thấy được cái nhỏ bé gọi là sáng, giữ được cái mềm gọi là mạnh. Dùng cái sáng của con, mà phục hồi ánh sáng của mẹ, không để lại tai họa. Đấy là học tập cái vĩnh cửu. |
五十三、 益證 [ích chứng]
Nếu ta ngay thẳng mà hiểu được, đi theo con đường lớn, sợ duy nhất đi ngoẹo. Con đường lớn bằng phẳng, nhưng dân chúng lại thích đi lối tắt. |
Triều đình quá chia rẽ, ruộng quá hoang vu, kho quá trống trơn. Ăn mặc sang trọng, đeo kiếm sắc, ăn uống chán chê, tài sản thừa thãi, đó gọi là kẻ trộm kiêu căng tự đại. Ngược đạo vậy thay. |
五十四、 修觀 [tu quan]
Người xây khéo không thể lật đổ, người khéo ôm không để tuột mất, con cháu đời sau tiếp nối thờ cúng không ngừng. |
Tựa đạo tu thân, thì là đức thực. Tựa đạo tu gia, thì là đức thừa. Tựa đạo mà tu sửa làng quê, thì là đức thường. Tựa đạo tu sửa đất nước, thì là đức thịnh. Tựa đạo tu sửa thiên hạ, thì là đức lớn. |
Cho nên lấy thân mà xét thân, lấy gia mà xét gia, lấy làng mà xét làng, lấy nước mà xét nước, lấy thiên hạ mà xét thiên hạ. Ta làm sao biết thiên hạ như thế nào? Tựa đạo. |
五十五、 玄符 [huyền phù]
Ôm giữ đức dày, giống như đứa trẻ trần truồng. Rắn độc không cắn, thú dữ không vồ, chim ưng không quắp. |
Xương yếu gân mềm mà nắm chặt, chưa biết mái với đực mà cái dái dựng đứng, tinh khí vậy đó. Cả ngày gào thét nhưng không khàn, xướng họa vậy đó. Biết hòa |
Vật cường tráng thì sẽ già, thế là trái đạo, trái đạo thì chóng tàn. |
五十六、 玄德 [huyền đức]
Người biết thì không nói, người nói thì không biết. |
Ngăn mọi lối, chặn mọi cửa, bẻ gãy cái sắc nhọn, tháo cái rối, làm dịu cái sáng, hòa với bụi bặm. Thế gọi là huyền đồng |
Cho nên không thể thân gần được, thờ ơ cũng không được, lợi dụng cũng không được, hại cũng không được, quí cũng không được, khinh rẻ cũng không được. Vì vậy không gì quí hơn trong thiên hạ. |
五十七、 淳風 [thuần phong]
Lấy ngay trị nước, lấy khôn dùng binh, lấy vô sự được thiên hạ. |
Ta làm sao biết được như vậy? Bởi vì: thiên hạ càng nhiều điều cấm kỵ, thì dân càng nghèo túng. Triều đình càng lắm lợi khí, thì quốc gia càng tối tăm. Người càng tài khéo, vật lạ càng nẩy sinh, pháp lệnh càng rõ rệt, trộm cướp càng nhiều. |
Vì thế thánh nhân bảo rằng: ta vô vi mà dân tự giáo hóa, ta ưa tĩnh mà dân tự thuần chính, ta vô sự mà dân tự dồi dào, ta vô dục mà dân tự chất phác. |
五十八、 順化 [thuận hóa]
Chính lệnh lờ mờ, dân chúng ôn hòa. Chính lệnh rõ rệt, dân chúng thiếu thốn. |
Họa vậy là nơi phúc tựa, phúc vậy là nơi họa nấp. Ai biết được tận cùng? Không ngay thẳng, thì đúng lại trở thành sai trái, thiện lại hóa thành tà. Con người vốn đã lầm lạc từ lâu rồi. |
Vì vậy thánh nhân ngay thẳng nhưng không gây hại, thanh liêm nhưng không làm tổn thương, thẳng thắn nhưng không phóng túng, sáng sủa nhưng không chói lóa. |
五十九、 守道 [thủ đạo]
Trị người, làm việc trời không gì bằng tiết độ. |
Chỉ tiết độ, vì thế sớm thuận lẽ phải, theo lẽ phải thì tích nhiều đức, tích đức cao dày thì không gì không làm được, không gì không làm được thì tuyệt không biết tột cùng, không biết tột cùng thì có thể có được nước. |
Nắm được gốc rễ của quốc gia, thì có thể tồn tại lâu dài. Đó gọi là rễ sâu gốc vững, trông thấy cái đạo trường tồn. |
六十、 居位 [cư vị]
Trị nước lớn cũng như nấu cá tươi. |
Dùng đạo trị thiên hạ, thì quỉ không thần thông. Chẳng những quỉ không thần thông, mà thần thánh cũng không hại người. Chẳng những thần không hại người, thánh nhân cũng không hại người. Cả hai không tổn thương lẫn nhau, cho nên đức cùng trở lại nơi đó. |
六十一、 謙德 [khiêm đức]
Nước lớn ở vị trí chỗ thấp, là nơi qua lại của thiên hạ, là âm hộ của thiên hạ. |
Con mái thường lấy tĩnh mà thắng con đực, lấy tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nếu nước lớn mà hạ mình trước nước nhỏ, thì sẽ có được nước nhỏ. Nước nhỏ mà hạ mình trước nước lớn, thì được nước lớn. Cả hai đều được như ý muốn, lớn thì nên khiêm hạ. |
六十二、 為道 (貴道) [vi đạo (quí đạo)]
Đạo là chỗ ẩn náo của vạn vật, là châu báu của người lành, là nơi nương tựa của kẻ bất thiện. |
Lời nói hay có thể tỏ rõ sự tôn trọng, hành vi đẹp có thể tăng thêm phẩm giá. Người bất thiện ấy, sao có thể quên? |
Cho nên lập ra thiên tử, đặt ngôi tam công, dù cho có chắp tay bưng ngọc đi trước xe tứ mã, cũng không bằng ngồi dâng đạo ấy. |
Vì sao xưa kia người ta quí trọng đạo này? Há chẳng phải: vì cầu thì được, có tội thì được tha thứ chăng? Cho nên khắp thiên hạ đều quí trọng. |
六十三、 思始 [tư thủy]
Làm mà không làm, thì sự cũng vô sự, vị cũng vô vị. Lớn nhỏ nhiều ít, lấy đức báo oán. |
Giải quyết cái khó từ cái dễ, làm cái lớn từ cái nhỏ. Việc khó khăn trên đời, phải làm từ dễ. Việc lớn trên đời, phải làm từ cái nhỏ. Vì vậy thánh nhân trước sau không làm việc gì lớn, mà thực hiện được việc lớn. |
Kẻ coi nhẹ lời hứa ắt ít lòng thành, lời nói càng dễ cho đi ắt càng khó thành. Vì vậy thánh nhân chỉ thấy khó, nên cuối cùng không gì khó khăn cả. |
六十四、 守微 [thủ vi]
Cái yên dễ giữ, cái chưa nhiều dễ tính, cái giòn dễ vỡ, cái cực nhỏ dễ tan. Làm lúc chưa có, trị lúc chưa loạn. |
Cây to ôm được, khởi từ ngọn nhỏ. Đài chín tầng, khởi từ đống đất. Đi xa ngàn dặm, bắt đầu từ một bước chân. |
Làm thì hỏng, giữ thì mất. Vì vậy thánh nhân không làm nên không hỏng, không giữ nên không mất. |
Dân khi tiến hành việc, thường bại lúc sắp thành. Cẩn thận từ đầu đến cuối, thì không hỏng việc. |
Do đó thánh nhân muốn cái không ham muốn, không quí của cải khó được. Học cái không học được, trở lại nơi chúng nhân làm trái lẽ, giúp vạn vật theo tự nhiên mà không dám làm quá. |
六十五、 純德 [thuần đức]
Người xưa khéo thi hành đạo, không làm dân biết rõ, mà lại làm cho dân ngu dốt. |
Dân mà khó trị, là vì đa mưu. Cho nên dùng trí trị nước, là hủy hoại nước. Không dùng trí trị nước, là phúc cho nước. |
Biết được hai điều này cũng là mẫu mực. Luôn biết mẫu mực, thì gọi là huyền đức. Huyền đức sâu xa vậy, tưởng là ngược với vật nhưng cuối cùng thật là xuôi. |
六十六、 後己 [hậu kỷ]
Sông biển sở dĩ làm vua trăm hang suối, chính vì khéo ở chỗ thấp, vì thế nên làm vua trăm hang suối. |
Vì vậy thánh nhân muốn ngồi trên dân, ắt phải lấy lời mà hạ mình. Muốn đứng trước dân, ắt phải để thân mình ra sau. Vậy nên thánh nhân ở trên dân mà dân không thấy nặng. Ở trước mà dân không thấy hại. Cho nên thiên hạ vui vẻ đùn đẩy lên trước mà không chán. Vì không tranh, nên thiên hạ tuyệt không tranh giành với y. |
六十七、 三寶 [tam bảo]
Thiên hạ đều cho rằng đạo của ta lớn, nhưng có vẻ không xứng. Chính vì vĩ đại, cho nên có vẻ không xứng. Nếu đã xứng từ lâu, thì chỉ là vật nhỏ mọn thôi. |
Ta có ba báu vật, nắm giữ chắt chiu. Một là khoan từ |
Nay bỏ từ mà muốn dũng mãnh, bỏ tiết độ mà muốn rộng rãi, bỏ chỗ sau mà muốn tranh chỗ trước, chết thay. |
Lấy khoan từ mà tranh đấu sẽ thắng, mà cố thủ sẽ vững. Trời phù trợ cứu ai, lấy khoan từ bảo vệ y. |
六十八、 配天 [phối thiên]
Làm tướng giỏi không dùng vũ lực, đánh nhau khéo không nổi giận, thắng địch khéo không giao tranh. |
Khéo dùng người là hạ mình xuống. Gọi là cái đức không tranh, là biết dùng sức người, là hòa hợp với cột trụ của trời. |
六十九、 玄用 [huyền dụng]
Thuật dụng binh có câu: ta không dám làm chủ mà làm khách, không dám tiến một tấc mà lui mười tấc |
Gọi là hành vô hành, lấy mà giấu tay, ném mà không có đích, bắt mà không cần binh. |
Không họa nào lớn hơn là khinh địch, khinh địch nguy cơ đánh mất báu vật |
七十、 知難 [tri nan]
Lời dạy của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm. Vậy mà thiên hạ chẳng ai hiểu nổi, chẳng ai làm nổi. |
Lời nói có gốc, việc làm có chủ. |
Người do không biết thế, nên không hiểu ta. Người hiểu ta rất ít, theo ta cũng rất hiếm. Cho nên thánh nhân mặc áo vải thô nhưng trong lòng ôm ngọc. |
七十一、 知病 [tri bệnh]
Biết mà không biết là tốt nhất. Không biết mà cho là biết thì là bệnh. |
Thánh nhân không bệnh, bởi vì biết bệnh là bệnh. |
Chỉ có biết bệnh là bệnh, thì mới không bệnh. |
七十二、 愛己 [ái kỷ]
Dân không sợ oai, thì uy quyền mới đến. |
Không khinh thường nơi dân chúng ở, không ép bức nơi dân chúng sống. Người không đè ép, cho nên không bị ghét bỏ. |
Vì vậy thánh nhân tự biết mà không tự biểu lộ, tự hiểu mà không tự tôn. Cho nên bỏ cái kia giữ cái này. |
七十三、 任為 [nhiệm vi]
Mạnh mẽ dám làm thì chết, mạnh mẽ chẳng dám làm thì sống. Hai cái đó hoặc lợi hoặc hại. |
Cái mà trời ghét, ai mà biết được cớ gì? Nên thánh nhân vẫn còn thấy khó. |
Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà tự đến, thản nhiên mà khéo tính. |
Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt. |
七十四、 制惑 [chế hoặc]
Dân không sợ chết, làm sao lấy cái chết để dọa nạt được? Nếu khiến dân luôn sợ chết, mà có kẻ làm ngang trái, ta có thể bắt giữ và giết, ai dám làm? |
Luôn luôn có kẻ xử việc giết chóc. |
Người đại diện xử việc giết chóc, thì gọi là thợ đẽo giỏi. Người thay kẻ lấy rìu đẽo cây, hiếm khi không làm tổn thương đến tay vậy. |
七十五、 貪損 [tham tổn]
Dân đói, là vì phía trên thu thuế nhiều, nên mới đói. |
Dân khó trị, là vì phía trên lắm luật lệ |
Dân coi thường cái chết, là vì phía trên tham sống nhiều, nên mới khinh chết. |
Chỉ có người không sống để giữ chức, là người có đức hạnh và quí sự sống. |
七十六、 戒強 [giới cường]
Người khi sinh ra thì mềm yếu, khi chết đi thì cứng rắn. |
Vạn vật cỏ cây khi sinh ra thì mềm yếu, khi chết đi thì khô héo. |
Cho nên kiên cường là đường chết, mềm yếu là đường sống. |
Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. |
Cho nên kiên cường ở dưới, mềm yếu ở trên. |
七十七、 天道 [thiên đạo]
Đạo của trời, giống như việc giương cung ư? Cái cao thì kéo xuống, cái thấp thì nâng lên, cái dư thì bớt đi, cái thiếu thì bù vào. Đạo của trời, bớt cái dư mà bù cái thiếu. |
Đạo người chẳng như thế, lấy bớt từ người thiếu để dâng cho người thừa. Ai có thể có dư để dâng hiến cho thiên hạ? Chỉ có người có đạo. |
Do đó thánh nhân làm mà không cậy công. Thành công mà không chiếm giữ, đó là vì không muốn biểu lộ đức hạnh. |
七十八、 任信 [nhiệm tín]
Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, thế mà khi tấn công vào những thứ kiên cường, tuyệt không gì có thể thắng nổi nó. Vì không có gì thay đổi được nó. |
Yếu thắng mạnh, mềm thắng cứng, thiên hạ ai cũng biết, nhưng không ai làm được. |
Do đó thánh nhân bảo: nhận lấy cái nhơ bẩn của quốc gia, đó gọi là chủ của đất nước. Nhận lấy cái bất hạnh của quốc gia, đó gọi là vua của thiên hạ. Lời nói chính trực dường như trái ngược. |
七十九、 任契 [nhiệm khế]
Hòa được oán lớn, ắt còn oán thừa. Há sao có thể cho là phải được? |
Cho nên thánh nhân giữ lời hứa, nhường mà không oán trách người. |
Có đức thì giữ trách nhiệm, vô đức thì đòi người trả. |
Đạo trời không thân cận ai, luôn ở bên người lành. |
八十、 獨立 [độc lập]
Nước nhỏ ít dân, sở hữu khí cụ gấp chục gấp trăm số người nhưng không dùng, khiến dân coi trọng cái chết mà không đi xa. |
Dù có thuyền xe, nhưng không nơi để đi. Dù có giáp binh, nhưng không nơi để bày. |
Khiến dân trở lại thắt nút dây mà dùng |
Các nước láng giềng nhìn được nhau, nghe thấy gà gáy chó sủa vang vọng qua lại, dân sống đến già cũng không qua lại với nhau. |
八十一、 顯質 [hiển chất]
Lời chân thật không hoa mĩ, lời hoa mĩ thì không chân thật. Người tốt không tranh biện, người tranh biện thì không tốt. Người hiểu biết không uyên bác, người uyên bác thì không hiểu biết. |
Thánh nhân không tích trữ, càng giúp người thì càng dư dả, càng cho người thì càng thêm nhiều. Đạo của trời, chỉ có lợi mà không hại. Đạo của thánh nhân, làm mà không tranh giành. |